Chùa Hưng Ký - cái tên nôm na ấy mang tên của người tạo
dựng nên nó. Chùa được ông Trần Văn Thành (tức Hưng Ký), một tín đồ của
Phật giáo xây dựng vào năm Bảo Đại thứ tám 1932 trên địa phận làng
Hoàng Mai thuộc thôn Đoài, nay là quận Hoàng Mai, Hà Nội. Chùa có tên
chữ là Vũ Hưng Tự và mang hiệu là Võ Hưng Truyền Am.
Tượng Phật bà trong sân chùa Chùa
Hưng Ký vẫn giữ chặt cái niêm luật của nhà Phật vốn có của các ngôi
chùa cổ ra đời trước đó. Từ ngoài vào là tam quan 3 tầng, tầng thứ hai
treo một quả chuông lớn, tầng dưới cùng có 3 cửa có tên lần lượt là Giả
Quan, Trung Quan và Không Quan. Đi qua sân lớn lát gạch là tới Tam bảo
có dạng chữ đinh với ba gian Tiền Đường, Thiên Hượng và Thượng Điện. Có
một điều đặc biệt là Thượng Điện của chùa là nơi thờ Phật khác hẳn với
các ngôi chùa khác. Nơi đây thờ bộ ba Phật A Di Đà ở giữa, hai bên là
đức Quan Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát (A Di Đà tam tôn), đây là những đức
Phật thường ra tay cứu vớt chúng sinh thoát khỏi vòng luân hồi để trở
về cõi Tây Phương cực lạc. Điều này cũng lý giải cho việc cửa chùa mở
về hướng tây. Ngoài ra còn có tám bức tranh và nhiều pho tượng nhỏ khác
nói về các cảnh đời của Phật. Tuy là một ngôi chùa có lịch sử không lâu
đời nhưng Vũ Hưng Tự lại có sức thu hút đặc biệt bởi nghệ thuật kiến
trúc rất phong phú và đa dạng. Bộ vì kèo trong chùa được làm bằng
ganitô giả đá kết hợp với các mảnh sứ ốp tường có nhiều màu sắc đã tạo
nên một bức tranh màu sống động và
Tòa tháp trong chùa làm
tôn thêm vẻ uy nghiêm vốn có. Mái chùa được làm từ ngói ống cùng với
các tượng sứ nhiều màu ghép lại trên các diềm mái nói về các sự tích
nhà Phật, sự vất vả tìm về chốn Tổ linh thiêng của các tín đồ và đồng
thời còn nói lên những tâm tư, tình cảm của các nghệ nhân gởi gắm lòng
tin về nơi đất Phật. Điều này tạo ra sự hòa quyện giữa cái ảo với cái
thật và sự thiêng liêng.
Chùa Hưng Ký cùng với quần thể kiến
trúc tôn giáo nơi đây là cả trang sử mỹ thuật ghi bằng hình tượng cộng
với phong cách kiến trúc nghệ thuật chứa đựng tính cách dân tộc giữa
cảnh đời nô lệ thời Pháp thuộc. Việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa các vật
liệu xây dựng hiện đại với phong cách kiến trúc cổ truyền của dân tộc
đã tạo ra một ngôi chùa tuy ra đời muộn màng nhưng lại có một không hai
trong lịch sử kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Đúng như lời cư sĩ Nã Nam
Mai đã viết trong bia soạn khi vãn cảnh nơi đây: “Bên Long Thành dựng
ngôi chùa. Nào tiên nào Phật điểm tô muôn vàn. Việc thần đạo kể làm sao
xiết. Phía Hà thành tỏ nét tài hoa. Danh lam đọ Bắc kỳ ta. Thực là bậc
nhất thuyền gia lâu đài...”.