Đó là chùa Keo.
Chùa Keo có tên chữ là Thần Quang tự, thuộc địa phận xã
Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Khu di tích lịch sử - văn hóa
này gồm hai cụm kiến trúc: chùa là nơi thờ Phật và đền Thánh thờ Dương
Không Lộ, vị đại sư.
Hồ nước trước tam quan nội
Theo
sử sách, thiền sư họ Dương, húy là Minh Nghiêm, hiệu là Không Lộ. Thiền
sư sinh ngày 14-9 năm Bính Thìn (1016), xuất thân làm nghề chài lưới
nhưng mộ đạo và đi tu từ năm 29 tuổi. Năm 44 tuổi, ông tu tại chùa Hà
Trạch cùng các sư Đạo Hạnh, Giác Hải, chuyên tâm nghiên cứu đạo thiền.
Năm 1060, ba ông đã sang Tây Trúc để tu luyện đạo phật. Một năm sau,
vào thời vua Lý Thánh Tông, ông về nước dựng chùa Nghiêm Quang, tiền
thân của chùa Thần Quang. Năm 1611, do sông Hồng sạt lở, chùa bị bão lũ
làm đổ, nửa làng Dũng Nhuệ phiêu dạt sang tả ngạn sông Hồng. Thời đó,
một vị quan lớn thời Lê - Trịnh là Tuấn Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng, quê ở
phủ Hải Thanh, cùng vợ là bà Lại Thị Ngọc Lễ đứng ra khởi công xây
dựng. Chúa Trịnh chỉ cấp 100 cây gỗ lim để xây chùa, còn lại đều do
nhân dân tự đóng góp. Quận công Hoàng Nhân Dũng đã phải mất 19 năm ròng
rã đi vận động quyên góp, bản thân ông cũng góp khá nhiều tiền của. Đến
tháng 11-1632, chùa Keo được tái tạo, khánh thành.
Trải gần 400
năm tồn tại, qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản
sắc kiến trúc độc đáo từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17), nhất là ở các
công trình chính như Tam quan, chùa Phật, đền Thánh, gác chuông, hành
lang... Từ trên mặt đê sông Hồng nhìn về phương Bắc, giữa đồng lúa xanh
bát ngát và những xóm làng trù phú xung quanh nổi lên một quần thể kiến
trúc cổ hoành tráng soi bóng xuống ba mặt hồ hình chữ nhật ở phía trước
và hai bên. Xung quanh hồ là những cây cổ thụ lớn xanh tốt quanh năm.
Quần thể kiến trúc chùa Keo hiện còn 17 công trình với 128 gian phân bố
trên 2.022m2. Từ mặt đê xuống qua bậc tam cấp gặp một sân nhỏ lát đá
tảng, công trình đầu tiên là tam quan ngoại. Rẽ phải hay trái theo con
đường men theo hồ nước đều gặp hai cổng tò vò, giữa là tam quan ngoại.
Điều đáng quan tâm nhất ở tam quan nội là bộ cánh cửa gian trung quan -
một kiệt tác chạm khắc gỗ từ thế kỷ 17. Từ đây, qua một sân cỏ rộng sẽ
đến khu chùa Phật, là nơi tập trung nhiều nhất các pho tượng Phật có
giá trị nghệ thuật cao vào thế kỷ 17, 18 như tượng Tuyết Sơn, La Hán,
Quan thế âm Bồ Tát... Khu đền thánh được nối tiếp với khu thờ Phật gồm
tòa giá roi, tòa thiêu hương, tòa phục quốc và thượng điện. Những công
trình này nối tiếp nhau, tạo thành một kết cấu kiểu chữ "công"; sau
cùng là gác chuông ba tầng hoàn toàn bằng gỗ, nguy nga, bề thế, rất độc
đáo. Theo sử sách, quả chuông ở đây được đúc bằng loại đồng do Thánh tổ
lấy từ 10 kho đồng ở nước Ngô đem về đúc tứ khí (tượng Quỳnh Lâm,
chuông Phả Lại, vạc Đỉnh Minh, tháp Báo Thiên), số còn lại đem về đúc
chuông chùa Keo. Hai dãy hành lang đông, tây nối từ chùa ông Hộ đến gác
chuông thẳng tắp, dài hun hút hàng chục gian bao bọc cả khu chùa.