I. Nội Dung Kinh Hoa Nghiêm
Nội
dung kinh nầy đứng trên cảnh giới bất tư nghì giải thoát, chư pháp thân
Đại Sĩ thừa oai thần của đức Phật tuyên dương công đức cùng cảnh giới
của chư Phật và xương minh nhơn hạnh xứng tánh bất tư nghì của chư đại
Bồ Tát.
"Tư tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm sanh. Tâm
là thực thể của vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện sai biệt hình
hình sắc sắc, trùng trùng duyên khởi, cái này có cái kia có và ngược
lại, như lưới đế châu. Tâm chơn thì pháp giới tánh với Tâm là một, vạn
pháp đồng nhất thể. Tâm thanh tịnh thì thấu đạt chơn lý Phật tánh, suốt
thông pháp giới vô ngại, thể nhập bất tư nghì giải thoát hạnh môn. Kinh
Hoa Nghiêm, đức Phật chỉ cho chúng-sanh thấu rõ cội nguồn của xum la
vạn tượng do mê thức vọng tưởng nghiệp duyên hình thành, các pháp hiện
hành trong vũ trụ là huyễn hóa, như hoa trong gương, như trăng trong
nước. Tất cả vạn pháp trong pháp giới đều từ tâm sanh. Tâm trùm khắp cả
pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải
có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn pháp. Thể tánh của Tâm nhiếp thâu
tất cả. Tất cả là một, một là tất cả. Ðó là bản tánh vô ngại của Tâm.
Bản tánh chơn tâm suốt thâu vạn pháp hữu tình và vô tình; lấy toàn thể
pháp giới tánh làm lượng; lấy xứng tánh bất tư nghì vô ngại giải thoát
làm thể. Ðó là ý nghĩa căn cốt của Kinh Hoa Nghiêm" (Thay Lời Tựa Kinh
Hoa Nghiêm, HT. Thích Đức Niệm).
II. Bốn Pháp Giới.
Kinh
này gọi đủ là "Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm", ta quen gọi là Kinh
Hoa Nghiêm. Muốn hiểu thấu phần nào cảnh giới trên đây, người học đạo
cần phải biết rõ bốn pháp giới, bốn cấp bực mà chư đại thừa Bồ Tát tuần
tự tu chứng.
1. Lý vô ngại pháp giới
2. Sự vô ngại pháp giới
3. Lý sự vô ngại pháp giới
4. Sự sự vô ngại pháp giới
1a.
Thể Tánh Hư Không (Căn Bản Trí hay Chơn Tâm). Lý vô ngại pháp giới, tức
là trong vũ trụ tất cả pháp của mọi vật đều có thể tánh hư không, tất
nhiên chúng dung thông lẫn nhau trong hư không. Thí dụ, nhãn căn, mắt
thấy con bò là thấy hình ảnh (thể hư không hay thể không) ở võng mạc
mắt mà thôi. Lục căn tiếp xúc với lục trần sanh ra lục thứ; lục thức
hay tâm thức là thể không. Tất cả vạn pháp (tánh không của vạn vật) đều
là thể tánh hư không nên chúng đương nhiên là phải dung thông vô ngại.
1b.
"Lý" tức là chơn lý thật tánh, là thể tánh chơn thật của tất cả pháp,
nên cũng gọi là pháp tánh hay pháp giới tánh, chơn như tánh. Tất cả
pháp trong vũ trụ đều đồng một thể tánh chơn thật ấy. Thể tánh ấy dung
thông vô ngại, nên gọi là "Lý vô ngại pháp giới". Người chứng được lý
vô ngại này chính là bực thành tựu căn bổn trí, mà bắt đầu dự vào hàng
pháp thân Bồ Tát.(HT.Thích Trí Tịnh)
2a. Tướng Hư Không (Sai
Biệt Trí hay thể không của hiện tượng). Sự vô ngại pháp gìới, tức mỗi
một vật (hiện tượng) đều chiếm trong hư không một dung tích, ta gọi
dung thể không hay tướng hư không của vật đó, ngay cả những sự chuyển
động, hơi, không khí của mùi vị, ý thức (trong tâm trí, tâm khảm) cũng
có phần chiếm hữu không gian. Nên mọi sự (lục trần) đều có thể tướng hư
không, tất chúng cũng dung thông vô ngại.
2b. Tất cả pháp "Sự" đều
đồng một thể tánh chơn thật, tức là đồng lấy pháp tánh làm tự thể. Toàn
thể "Sự" là pháp tánh, mà pháp tánh đã viên dung vô ngại, thời toàn sự
cũng vô ngại, nên gọi là "Sự vô ngại pháp giới". Người chứng được pháp
giới này chính là bực pháp thân Bồ Tát thành tựu sai biệt trí (cũng gọi
là quyền trí, tục trí, hậu đắc trí).(HT. Thích Trí Tịnh)
3a. Căn
Bản Trí và Sai Biệt Trí dung thông vô ngại. Vì căn bản trí hay lý tánh
là "thể hư không," còn thủy giác là "tướng hư không" của hiện tượng.
Cho nên tướng hư không của hiện tượng dể dàng hòa nhập thề tánh hư
không. Vậy, lý sự dung thông vô ngại.
3b. Lý là thể tánh của "Sự"
(tất cả pháp), "Sự" là hiện tượng của "Lý tánh". Vậy thời lý tánh tức
là lý tánh của sự, còn sự lại là sự tướng của lý tánh. Chính Lý tánh là
toàn sự, mà tất cả sự là toàn Lý tánh, nên gọi là "Lý sự vô ngại pháp
giới". Người chứng được lý sự pháp giới này thời là bậc pháp thân Bồ
Tát đồng thời hiển phát cả hai trí (căn bổn trí và sai biệt trí).(HT.
Thích Trí Tịnh)
4a. Các Tướng Hư Không đều dung thông vô ngại. sự
sự vô ngại pháp giới là các tướng hư không của các hiện tượng đều dung
thông với nhau. Do đó có thể nói một sự vật nào (tướng hư không) đều
dung nhiếp hay hòa nhập vào tất cả sự vật, và tất cả sự vật cùng dung
nhiếp vào một sự vật, vì là các tướng hư không nên không ngại hòa nhập
vào thể hư không dễ dàng.
Tất cả sự đã toàn đồng một thể tánh mà
thể tánh thời dung thông không phân chia riêng khác, nên bất luận là
một sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự, và cũng đều tức là tất cả sự,
một sự nhiếp và tức tất cả sự, tất cả sự nhiếp và tức một sự. Thế là sự
sự vô ngại tự tại, nên gọi là "Sự sự vô ngại pháp giới". Người chứng
được Sự sự pháp giới này là bực pháp thân Bồ Tát thành tựu nhứt thiết
chủng trí. Viên mãn trí này chính là Ðấng Vô Thượng Giác (Phật Thế Tôn
).
Sự sự vô ngại pháp giới dung thông tự tại, nội dung của toàn bộ
Kinh Hoa Nghiêm, được chứng minh trên toàn thể văn Kinh này. Nay xin
lược dẫn một vài đoạn văn rõ nhứt để chư học giả tiện tham cứu:
Sự sự là tất cả sự hoặc là tất cả pháp, tức là toàn thể không gian và thời gian.
Tất
cả vạn pháp trong pháp giới đều từ tâm sanh. Tâm trùm khắp cả pháp
giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có
thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn pháp. Thể tánh của Tâm nhiếp thâu tất
cả. Tất cả là một, một là tất cả. Ðó là bản tánh vô ngại của Tâm. Bản
tánh chơn tâm suốt thâu vạn pháp hữu tình và vô tình; lấy toàn thể pháp
giới tánh làm lượng; lấy xứng tánh bất tư nghì vô ngại giải thoát làm
thể. Ðó là ý nghĩa căn cốt của Kinh Hoa Nghiêm. (HT. Thích Trí Tịnh)
III. Pháp Thể Nhập Căn Bản Trí.
Như
đã trình bày, Sai Biệt Trí hay Giác Trí là tiến trình tri nhận đầu
nguồn của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhất Nguyên Tính Tương Đối của Trí
Thức hay Tư Tưởng. Nhất Nguyên là vì khi Ý Tác Động của Căn (Ý thức)
tiếp xúc với đối tượng (thực tại giả lập), thành Giác Thức (hay Tâm
Thức), lập tức được Ý Tác Năng (Ý Trí) ý niệm hóa Giác Thức thành Giác
Trí (hay Tâm Trí hay Trí Sai Biệt). Tâm Thức và Tâm Trí cùng một Tâm.
Thức chuyển thành Trí. Giác Trí Đang Là (Sai Biệt Trí), dù nằm trong
đạo lý nhất nguyên, nhưng nó cũng huyễn hóa theo thời gian. Cái Đang Là
là sự nối tiếp những điểm sát na sanh diệt liên tục. Dòng Giác Trí ấy
trôi chảy làm cho Trí và Thức liên hợp sanh ra Tư Tưởng. Còn tư tưởng
là còn có sự thay đổi, nên chưa phải là chân lý. Chân lý thì thường
hằng bất biến. Do dó Giác Trí Đang Là thuộc diện tương đối; Căn Bản Trí
hay Giác Trí Tuệ hay cái Trí Nguyên Sơ được nhận thức ngay nơi thực tại
điểm khởi đầu tiến trình của động tác Giác Trí Đang Là, cũng là Nhất
Nguyên Tính Tuyệt Đối của Năng Sở song vong và vô Thời Không. Vậy Căn
Bản Trí là Chân lý tối hậu hay Tự tính tuyệt đối, hay đạo lý Nhất
nguyên tuyệt đối là Nhận thức vượt Thời Không, là Tánh Giác hay Tánh
Không. Vậy muốn có Sai Biệt Trí, và Căn Bản Trí, cần nhắc lại sự hình
thành Thức, Trí, và Tri Thức Nguyên Thủy, hay phân biệt rõ ràng Sai
Biệt Trí và Căn Bản Trí.
a). Nhận Thức (Perception).
Khi
chúng ta cảm giác hình ảnh sự vật thì lúc đó chúng ta mới nhận biết
được (perceive) tên sự vật. Sự vật có tên mà ta nhận thức đó là GIÁC
THƯC (hay Tâm Thức: Consciousness hay Perception) chạy dài theo thời
gian. Khi nhận thức ngay niệm đầu một sát na và không có kéo dài thời
gian nữa là ta có giác thức nguyên sơ (niệm đầu) hay là chơn thức (pure
perception or true consciousness). Hình ảnh con bò là thể không, được
nhận thức bởi tâm trí (tâm trí cũng cùng thể không.) Tâm và vật đồng
thể không, nên sự nhận thức mới thành hình. Lục căn phối hợp với lục
trần (thể không) sanh ra lục thức. Lục thức không có thực thể, Phật gọi
là lục tặc, vì thức là nghiệp. Dòng tâm thức luôn trôi chảy không ngừng
nghỉ. Nó không có khởi điểm cũng như kết thúc và nó dính nhiều pháp
trần làm cho dòng tâm thức luôn ô nhiễm và vẩn đục.
b). Sai Biệt Trí hay Tri Thức hay Giác Trí (Cognition).
Trong
đời sống hằng ngày, ta thường cảm nhận sự vật bằng ngũ giác quan chỉ
thấy hình ành sự vật và biết được tên sự vật bằng nhận thức. Khi ta tri
nhận (cognize) sự vật đã nhận thức, ta có tri thức (Cognition). Trong
quá trình tri nhận sự vật trong hiện tại (Với cảm giác), quá khứ hay
tương lai (với ý thức), cả ba thời chúng ta tri nhận được sự vật mới có
GIÁC TRÍ (hay Tâm Trí hay Sai Biệt Trí). Giác Trí nầy là Tư Tưởng, Suy
Nghĩ, Lý Luận v.v. theo thời gian. Nó là sự lập lại của tâm thức hay
tri nhận các thức nên nó tạo ra nghiệp thức. Nên ta có thể gọi là tâm
duyên ý mã vì tư tưởng chúng ta lúc nào cũng ẩn hiện trong tâm trí từng
giây từng phút liên tục, chỉ trừ có những động lực khác hay pháp môn có
khả năng chận dừng được vọng tưởng đó.
c). Căn Bản Trí hay Giác Trí Tuệ (Pure Cognition).
Khi
Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ hay Căn Bản Trí
thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Căn Bản Trí trong các
thời thiền tập. Thực ra Căn Bản Trí có thể thực hiện trong tứ oai nghi.
Vậy Giác Trí Tuệ là tri nhận đầu nguồn của Giác Trí và xa lìa nó ngay.
Nói rõ hơn là khi chúng ta nhận thức niệm đầu của Cảm Giác (Sensation)
để có Giác Thức nguyên sơ (Pure Perception hay first consciousness),
lập tức tri nhận Giác Thức nguyên sơ ấy để được Giác Trí hay Sai Biệt
Trí (Cognition là Giác Trí có thời gian) và xa lìa giác trí ngay mới có
Giác Trí Tuệ hay Căn Bản Trí (Vô thời gian). Vì Căn Bản Trí là Tri Thức
Nguyên Thủy (Pure Cognition) của Chân Trí (Vô thời không). Thí dụ,
chúng ta thấy con voi là giác thức hay tâm thức, vì thấy hình ảnh đối
tượng hay con vật trước (Cảm Giác) rồi nhận thức (perceive) con vật đó
là con voi (hay biết được là con voi, biết nầy thấy biết của căn, luôn
luôn đi kèm theo cảm giác, nên thấy con voi, biết tên đối tượng là cái
thức hay tâm thức hay giác thức. Nên thức là thực tại duyên khởi hay
giả danh mà thôi). Rồi chúng ta tri nhận (dùng ý trí) giác thức ấy để
có giác trí hay sai biệt trí. Vậy khi chúng ta nhận thức niệm đầu của
con voi (thấy biết con voi đầu tiên) là ta có giác thức nguyên sơ, lập
tức ta tri nhận (Hay Biết: Cognize chớ không phải là perceive) giác
thức nguyên sơ ấy để có căn bản trí hay giác trí tuệ và phải xa lìa cái
biết ấy nữa thì mới có căn bản trí toàn diện.
d). Thể Nhập Căn Bản Trí
Như
đã trình bày, muốn thể nhập Căn Bản Trí (Hư Không) từ Sai Biệt Trí
(Tướng Hư Không), chúng ta tri nhận Sai Biệt Trí ngay niệm đầu và liền
xa lìa nó ngay, tức là đưa "tướng hư không" hòa nhập vào thể "hư không
vô tận", nói khác đi là đưa tát cả sai biệt trí hòa nhập vào căn bản
trí. Thí dụ, thấy con bò, ta biết có tánh thấy thôi (không trụ hay lập
lại con bò nữa) rồi tiếp tục từng đối tượng khác.Vì tánh cách tướng
không của sự vật, nên đối tượng tự nhiên hay chúng ta tạo ra để quán
dung thông và hòa nhập vào hư không dể dàng. Nói rõ hơn là ngay đầu
nguồn cuả sai biệt trí dể có căn bản trí tại đó là lúc đó và xa lìa cái
trí đó. Bởi vì nhận thức một điểm trong dòng lưu chuyển của sai biệt
trí là ta có căn bản trí rồi, rồi an trụ nó như cách trên. Thực tại
điểm đó vô thời không cho nên không có tư tưởng, khái niệm gì v.v., nó
là nó là chơn tâm.
IV. Kết Luận
Kinh
Hoa Nghiêm này đã hoàn toàn ở trong lảnh vực xứng tánh bất khả tư nghì
giải thoát mà xương minh, nên mỗi lời mỗ câu trong kinh lấy toàn thể
pháp giới tánh làm lượng. Đã là toàn thể pháp giới tánh nên tất cả
Giáo, Lý, Hạnh, Quả nơi đây đều dung thông vô ngại, nên cũng gọi là vô
ngại pháp giới. Từng bực cứu cánh của vô ngại pháp giới là sự sự vô
ngại chỗ chứng nhập hoàn toàn của chư Phật mà chư pháp thân Bồ Tát thời
được từng phàn.Tất cả cảnh giới đều phat xuất từ Chơn Tâm hay Căn Bản
Trí. "Chơn Tâm vốn thanh tịnh, đầy đủ và trọn sáng, nhưng cũng có nhiều
diệu dụng, trong số đó có hai diệu dụng dưới đây là quan trọng nhứt:
a) Diệu dụng năng sanh tạo ra thế giới, sum la vạn tượng.
b) Diệu dụng cứu độ, hướng về việc thực hành các đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền nhằm cứu vớt chúng sanh.
Cái
nhìn viên dung bắt nguồn từ Chơn Như trong sáng, dung nhiếp tất cả vật
trong vũ trụ, thu nạp hình ảnh của vạn vật trong cái gương như thể tánh
của nó, và chính nhờ cái nhìn viên dung ấy mà chúng ta mới thấy rằng
vạn pháp sai biệt cùng phát xuất từ Chơn Như" (L.H. Tiọnh Huệ). Kinh
Hoa Nghiêm nhằm xiển dương cái lý viên thông vô ngại của Phật Pháp,
suốt quá trình tu tập gồm 4 giai đoạn Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Pháp học đầy
đủ, thông suốt bốn pháp giới như trên, giữ giới hạnh nghiêm minh, thể
nhập căn bản trí là Pháp thành của các Bồ Tát vậy.