TT. Thích Đồng Bổn
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
Tôi
có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa
Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc,
một đệ tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung,
ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học.
Hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận
một câu nói để đời: “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”.
Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với
hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn.
Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời
của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại.
Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc
và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
1. Hòa thượng Trí Hải là người tiên phong của phong trào chấn hưng
Năm
1929, phong trào chấn hưng Phật giáo do Hòa thượng Khánh Hòa và Sư
Thiện Chiếu ở miền Nam phát động đã lan khắp Bắc Trung Nam. Khi ấy, Hòa
thượng Trí Hải còn là một thanh niên tăng mới 25 tuổi, đang ở độ tuổi
đầy nhiệt huyết, đã đi tiên phong trong cuộc cải cách Phật giáo, với
những ý tưởng: mở trường đào tạo, Việt hóa kinh điển bằng Quốc ngữ,
công tác từ tế xã hội và phổ cập hóa giáo lý nhà Phật đến đại đa số
quần chúng.
Giai đoạn này, ở miền Bắc vẫn là những cuộc thăm dò dư
luận trong các giới trí thức, sĩ phu, tăng sĩ… Hòa thượng Trí Hải là
người đơn thương độc mã như ngài Khánh Hòa tại miền Nam, chuyên chú vào
việc tập tìm kiếm nhân sự nòng cốt để khai sinh Hội Phật giáo Bắc Kỳ.
Ngài chủ trương vận động sự tham gia của ba đối tượng sau:
1) Giới
tu sĩ xuất gia và tại gia Phật tử như: Hòa thượng Phan Trung Thứ, Hòa
thượng Tế Cát, Hòa thượng Tố Liên, Cư sĩ Thiều Chửu-Nguyễn Hữu Kha, Cư
sĩ Nguyễn Trọng Thuật, Văn Quang Thùy…
2) Giới nhân sĩ trí thức như Bác sĩ Trần Văn Lai, Bác sĩ Trần Duy Hưng, ông Nghiêm Xuân Yêm, Dương Đức Hiền, Đỗ Đức Dục…
3)
Giới quan lại trong bộ máy thống trị để tranh thủ ảnh hưởng của họ
trong việc thành lập hội như Tổng đốc Hoàng Trọng Phu, Tổng đốc Nguyễn
Năng Quốc…
Sa môn Trí Hải một mình với túi chuông mõ đi gõ cửa
từng nhà “quan to” đất Bắc, để tuyên truyền về giáo lý và đạo Phật
“mới” theo tư tưởng của phong trào chấn hưng Phật giáo. Ngài không chỉ
thuyết giảng mà còn thông qua các hình thúc khác để tiếp cận và vận
động nhiều đối tượng. Chẳng hạn, ngài xin phép gia chủ thiết lập đàn
tràng, dựng tranh tượng Phật, đốc thúc gia nhân quét dọn bày biện…
Những câu kinh “Cầu trường thọ đắc trường thọ, cầu phú nhiêu đắc phú
nhiêu, cầu quan vị đắc quan vị, cầu nam nữ đắc nam nữ” đánh trúng tâm
lý ông bà chủ, và dĩ nhiên là khóa tụng được thành công tốt đẹp. Sư ông
Trí Hải lúc ấy cũng không quên tập họp con cái gia nhân trong nhà để
giải thích sơ lược về đạo Phật, để động viên những gì tốt đẹp trong con
người họ.
Với chiến thuật đó, Hòa thượng đã tranh thủ được tình
cảm hầu hết giới quan lại Bắc Kỳ và được họ hứa giúp đỡ nhất là hai
nhân vật nổi tiếng là Hoàng Trọng Phu và Nguyễn Năng Quốc. Một giai
thoại vẫn còn truyền tụng cho tới nay là chuyện báo “Loa” đăng hình
Nguyễn Năng Quốc mặc y đeo chuỗi tràng và đang gõ mõ tụng kinh kèm theo
lời chú thích: “Chú Tiểu Nguyễn Năng Quốc”. Xem ảnh, quan đại thần thế
lực hàng đầu này đã cười bảo: “Cái tụi phàm phu ngu muội, không biết
xuất gia tu Phật là một vinh hạnh, thực ra nó đề cao ta đó”.
Đến
năm 1934, Hội Phật giáo Bắc Kỳ được thành lập, tập họp nhiều người
trong giới trí thức quan lại. Hòa thượng Trí Hải chỉ đứng một chân
khiêm tốn trong Hội, nhưng ước nguyện của ngài đã đạt được.
Năm
1936, lúc phong trào chấn hưng khắp ba miền đã có cơ sở vững chắc, cơ
quan ngôn luận và chi hội, khuôn hội được thành lập khắp các tỉnh
thành, đó cũng là lúc tình hình chính trị xã hội có nhiều biến
động.Trước tiên là Mặt Trận Bình Dân (Front Populaire) do Leon Blum
lãnh đạo mới thắng thế trong Quốc hội Pháp, chủ trương nới lỏng chế độ
cai trị cho các thuộc địa. Sở dĩ phải nhắc đến sự kiện này, vì dư luận
lúc ấy cho rằng thực dân Pháp cho phép thành lập các hội Phật Giáo ở cả
ba kỳ, thực chất là để thân Pháp và ru ngủ phong trào giải phóng dân
tộc. Điều này không những sai về cơ bản mà còn có ý phủ nhận công lao
của những chiến sĩ tiên phong trong công cuộc chấn hưng đạo Phật, trong
đó có Hòa thượng Trí Hải. Ta có thể thấy ngay rằng, cũng vào năm 1936
tại nước Đức, phong trào Chủ nghĩa Quốc gia Xã hội (Nazi) của Hitler đã
bắt đầu nổi lên. Chính quốc Pháp cần phải để yên cho các phong trào
giải phóng ở các xứ thuộc địa, hầu rảnh tay chuẩn bị đối phó với chủ
nghĩa phát xít. Chính nhân tố đó góp phần làm cho phong trào chấn hưng
được thành công ở cả ba miền, và cũng chính hai sự kiện xã hội vừa nêu,
cũng là yếu tố giúp các phong trào cách mạng có cơ hội bám rễ vào lòng
dân tộc, dưới vỏ bọc các hội Phật học và cơ quan ngôn luận Phật giáo.
Họ đã dựa rất nhiều vào Phật giáo để xây dựng tổ chức và làm bình phong
hoạt động. Họ gồm toàn trí thức “Tây học”, nghĩa là được đào tạo sau
chế độ thi cử Hán học đã cáo chung theo Nhà nước phong kiến (1915 -
1916)
Cụ thể như: Đảng Dân chủ của Dương Đức Hiền, và về sau Đảng Xã
hội của Nghiêm Xuân Yêm, các đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương cũng
dựa vào chi nhánh “Hội Phật tử Việt Nam” để làm chỗ núp cho cơ sở cách
mạng từ năm 1940, sớm nhất vào thời đó. Thế thì, đó chẳng là cái nôi
bộc phát của chủ nghĩa yêu nước và các phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc sau này đó sao?
2. Tư tưởng Nhân gian Phật giáo
Trong
giai đoạn này, khi tư tưởng “Nhân gian Phật giáo” của Nguyễn Trọng
Thuật khởi xướng, Hòa thượng Trí Hải cùng với người cộng sự là Cư sĩ
Nguyễn Hữu Kha là người xung phong thực hiện. Nhân gian Phật giáo trong
tâm tưởng Hòa thượng Trí Hải là phác thảo một khu vực xã hội Phật giáo
thuần túy, nằm song song bên một xã hội thực tế. Trong “quốc độ Phật
giáo” của ngài, có kinh tế tự cung tự cấp, không các tệ nạn, không giai
cấp giàu nghèo, chỉ có người bình đẳng với người, đều phát tâm tu thiện
làm lành, từ bi cứu khổ, không các chướng duyên ác nạn và kẻ xấu. Đó
phải chăng là một kiểu xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Phật giáo? Điều
này được ngài biến thành thực tế vào năm 1943 qua chương trình kiến
thiết một Đại Tùng Lâm rộng 20 mẫu tây ở ga Thường Tín-Hà Đông và có 50
mẫu ruộng làm kinh tế ở Thái Bình, trước khi Cách mạng tháng Tám thành
công. Sau này, khi Hòa thượng Thiện Hòa học ở Bắc trở về, các Đại Tùng
Lâm Phật giáo ở miền Nam được thành lập theo chí hướng ấy. Bắt đầu bằng
Đại Tùng Lâm trên 100 mẫu đất ở Phú Mỹ, Bà Rịa lập thành. Tiếp sau nữa
là các nơi khác như Phật Tích Tùng Lâm của Tổ đình Linh Sơn và khu
Thiền viện Thường Chiếu ở Long Thành.
3. Quan điểm dân tộc hóa nghi lễ
Ngài
là một tiên phong trong vấn đề Việt hóa kinh điển, thoát khỏi sự lệ
thuộc vào Hán ngữ ở hầu hết các chùa miền Bắc xưa nay tụng niệm. Đây là
nền tảng cho việc phổ cập hóa giáo lý đạo Phật, nhưng không có nghĩa là
làm nhẹ đi tính chất bác học của chữ Hán mà cốt để giáo lý ấy được hiểu
trọn vẹn bằng ngôn ngữ và suy nghĩ của người Việt, khiến cho triết lý
đạo Phật trở thành những áng văn học Việt Nam, cũng như dễ dàng đi sâu
vào các tầng lớp quần chúng. Trong lĩnh vực này Hòa thượng là người
triệt để và tiến bộ nhất ở cả ba miền Bắc Trung Nam, nhất là sau chuyến
công du Trung Quốc, ngài thấy rằng các nước Tàu, Nhật, Cao Ly đều có
phong trào học tập nghiên cứu Phạn văn, tìm hiểu Phật giáo từ chính gốc
để so sánh đối chiếu với bản ngữ, không phải lệ thuộc vào kinh điển Hán
văn nữa. Đó cũng là tư tưởng tiến bộ của ngài cũng như nhiều sĩ phu
khác, với hoài bão muốn độc lập tự chủ về mặt văn hóa ngôn ngữ nước nhà.
Trong
cuốn “Chú thích khóa tụng Chú Thủ Lăng Nghiêm Suramgama” là một trong
số rất ít công trình của ngài còn lưu lại, ngài viết: “Ta thường truyền
tụng, thần chú chỉ có Phật mới hiểu, người tụng chỉ cần thành tâm, điều
này là một sai lầm lớn. Mỗi vần thơ vi diệu đó mà âm thanh và những nốt
rung của nó đã được tính đúng để có tác dụng và giao cảm đến sự vật,
đến quỷ thần và không phải là hoàn toàn vô nghĩa. Hán văn là thứ chữ
tượng hình không diễn tả được “thanh”. Quan hỏa là thứ tiếng không bắt
chước được tiếng Phạn, tiếng Việt ta hoàn toàn làm được việc đó. Người
Tàu chỉ đọc gần đúng còn ta xưa căn cứ vào Hán tự lại đọc chẹo ra
nữa…”. Bởi vậy, theo ngài “Nam mô Sat đát tha sô ga tha da” chứ không
phải là “Tát đát tha tô già đa da”, vì cụm từ “sardartha sogataya” có
nghĩa: Xin cho hết thảy đấng xuất Thế gian che chở,v.v… lại có nghĩa
cái tàn lọng trắng tinh thanh tịnh trên đầu Phật che chở,v.v… Nhưng vì
thời đó không có một tổ chức một bộ phận chuyên môn làm khuôn mẫu cho
nghi thức - mà cứ mạnh ai nấy đọc cho tới ngày nay cũng vậy - nên cao
kiến hơn đời của ngài chỉ là sự kêu gọi đơn lẻ, người đọc thì cứ đọc,
còn người biết mà can đảm dám sửa lệ cổ theo cách của ngài thì rất ít.
Vả lại, sư giao lưu văn hóa và truyền thông thời đó còn nhiều hạn chế.
Trong
Việt hóa nghi lễ, ta còn thấy ngài đã biên soạn rất nhiều sách tụng
niệm phổ thông ra chữ Việt văn vần để mọi người dễ dàng đọc tụng, như
các sách “Nghi thức tụng niệm”, “Gia đình giáo dục”, “truyện Phật Thích
Ca”, “Đồng nữ La Hán”…
Ngoài ra, những nơi ngài góp công xây dựng
hoặc trú trì như chùa Quán Sứ, chốn tổ Bồ Đề, chùa Phật giáo Hải Phòng…
trên 30 năm, ngài đã sáng tác rất nhiều câu liễn đối bằng chữ Việt,
thay thế cho những câu liễn đối chữ Hán vốn tồn tại từ bao đời ở hầu
hết chùa tháp miền Bắc. Đây là một bước đột phá nữa đưa chữ quốc ngữ
vào thay cho lề thói cũ mà ngài một lần nữa cũng là người tiên phong,
điển hình như 2 câu đối ở mặt tiền chính điện chốn tổ Bồ Đề mà đến nay
bút tích vẫn còn đó nguyên đấy :
- Quay đầu cửa Phật đây không hẹp,
Tiến lên bờ giác tới Bồ Đề
- Cả chín cõi đều cùng kính mộ,
Khắp muôn đời đâu đấy quy y.
4. Tinh thần yêu nước và nhập thế cứu khổ
Trong
nạn đói năm Ất Dậu, tinh thần từ bi cứu khổ của ngài thật sự tỏa sáng,
khi cùng với Hòa thượng Tố Liên và Cư sĩ Thiều Chửu thành lập Tổng hội
Cứu tế đặt tại chùa Quán Sứ. Tự thân ngài đã đeo băng chữ thập đỏ kéo
xe bò đi quên góp gạo. Một mặt, ngài cho lập một dãy bàn trước chùa
Quán Sứ để phát cơm cháo cho đồng bào. Hòa thượng tự mình đích thân
chăm sóc mọi người, nếu thấy ai đói quá thì phải đổ từng muỗng cháo,
rồi để năm nghỉ khỏe mới cho ăn cơm. Nhờ thế, ngài đã cứu được rất
nhiều người khỏi chết đói và chết no. Ngài lại dựng lên Cô Nhi Viện
nuôi hơn 200 trẻ thất lạc bơ vơ do nạn đói gây ra.
Vào năm 1941-
1942, ngài ủy thác cho Cư sĩ Thiều Chửu thành lập nghĩa trang Tế Độ để
giúp đỡ người nghèo khó trong việc tang ma. Đối với trẻ em, ngài cũng
lập nên trường học Phổ Quang để dạy dỗ miễn phí cho học trò cả chữ
nghĩa và đạo đức. Hai cơ sở này tọa lạc ở ngoại ô Hà Nội. Công hạnh từ
bi cứu khổ của ngài, còn mãi trong lòng những người dân, những người
Phật tử xứ Bắc và được truyền tụng cho con cháu họ đến ngày nay, dẫu họ
ở tại quê huơng hay đã di cư xa xứ.
Chính vì tấm lòng từ bi,
chấp nhận đồng cam cộng khổ gắn bó vời quần chúng Phật tử còn nghèo khó
mà ngài đã ở lại quê hương miền Bắc chứ không xuống tàu ra đi theo làn
sóng di cư vào Nam lúc chia đôi đất nước. Ở đây ta thấy ánh lên trong
ngài một lòng yêu nước lớn lao. Ta có thể nhìn thấy tấm lòng này qua
việc ngài đã nổi giận thật sự với đệ tử khi sư ông này xin phép xuống
Hải Phòng để xuôi Nam: “Chú muốn vào Nam thì hãy lột áo ra khỏi chùa và
về nhà ngay”. Hòa thượng chỉ tay ra đường nói với đầy vẻ thất vọng giận
dữ. Lập trường yêu nước và sống chết với tín đồ của ngài thật là dứt
khoát.
Một điểm nữa cần nhìn nhận lại về tư tưởng của ngài khi
có quan điểm cho rằng ngài đã bị người Nhật mua chuộc thông qua việc để
Watanabe của Đảng Hắc Long được phép mở trường dạy tiếng Nhật miễn phí
ở cạnh chùa Quán Sứ. Ta thấy rằng lập trường dân tộc nơi ngài rất dứt
khoát khi kiên quyết gạt mọi phần tử thân Nhật cùng Đảng Đại Việt ra
khỏi Hội Phật Giáo Bắc Kỳ. Có lẽ do chủ trương một đạo Phật thuần túy
và quan điểm “người tu Phật không làm chính trị” mà ngài không chấp
nhận các đảng phái chính trị len lỏi trong Hội Phật Giáo, thế nên Hòa
thượng bị gán cho quan điểm như thế. Ta phải thấy rằng, bởi vì thời ấy
do đất nước còn chưa được độc lập tự chủ, chiến tranh và nhiều thế lực
chính trị nổi lên, nếu không là theo quan điểm này thì cũng là thuộc
phe phái nọ, đó là suy nghĩ của mọi người trong ly loạn vậy.
Với
Hòa thượng Trí Hải, một nhân tố nòng cốt của phong trào chấn hưng Phật
giáo tại miền Bắc, chúng ta nhận thấy rằng, tư tưởng tiến bộ của ngài,
là ý thức được tình trạng hủ lậu và lạc hậu của Phật giáo sau nhiều thế
kỷ nặng nề phong kiến. Hoài bão cách tân nơi ngài thực sự là một cuộc
cách mạng Phật giáo, một cuộc cách mạng tư tưởng, thổi bùng lên làn gió
mới về một nền Phật giáo tích cực nhập thế. Còn hơn thế nữa, khi mục
tiêu lớn hơn của ngài ở lập trường dân tộc thời ấy, là dự định trùng tu
di tích Trúc Lâm Yên Tử, biểu tượng của Phật giáo truyền thống Việt
Nam, làm sống lại thời đại Lý Trần oanh liệt của lịch sử dân tộc.
Dấu
ấn của ngài như còn bàng bạc đâu đây, khi hàng ngũ kế thừa sự nghiệp ấy
ngày nay đã đưa đạo Phật hòa nhập vào xã hội, trở thành một tôn giáo
tích cực nhập thế, từng bước thực hiện các hoài bão của ngài để lại. Ở
điểm này, chúng ta cần nhìn lại quan niệm về “Nhân gian Phật giáo” của
ngài cũng có chỗ phiến diện. Đạo Phật với quan điểm từ bi, không có
ranh giới cho cho mọi hình thái định chế xã hội. Tôi cho rằng, quan
niệm về Nhân gian Phật giáo ở thời đại phát triển của Phật giáo hiện
đại, phải là đưa Phật giáo hòa nhập vào mọi góc cạnh của xã hội, khiến
phát huy hết tính tích cực cải tạo xã hội, tốt đạo đẹp đời, bằng nền
tảng đạo đức hành thiện. Có như thế thì mới gọi là Nhân gian Phật giáo,
đó là một thế giới hòa bình không chiến tranh, không bạo lực, chứ không
phải chỉ là một hoặc nhiều “quốc độ Phật giáo” nằm rải rác trong xã hội
rộng lớn quanh ta. Như thế, quan niệm Nhân gian Phật giáo của ngài chỉ
là một giải pháp xã hội, một mô hình khởi điểm, chứ chưa thể là một mục
tiêu sau cùng của đạo Phật.
Về giáo dục, đến nay chúng ta cũng
mở ra các cấp trường lớp đào tạo Tăng tài khắp 3 miền đất nước. Về kiến
tạo, chúng ta cũng đã trùng tu di tích Trúc Lâm Yên Tử trở thành quần
thể văn hóa tôn giáo du lịch, góp phần phát huy tính tích cực của Phật
giáo lên cao trào, để Phật giáo đồng hành cùng đất nước tiến vào kỷ
nguyên văn minh phồn thịnh. Nơi chân trời Bát Nhã kia, chắc hẳn ngài
cũng đã mãn nguyện về những gì chúng ta đã tiếp bước hoàn thành tâm
nguyện ấy của một bậc tiên phong.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo Sử luận. Tập III. Lá Bối xuất bản, Paris 1978
2. Chính Đạo. Việt Nam Niên Biểu 1939-1975.Văn Hóa xuất bản. Hoa Kỳ 1996.
3. Trương Ngọc Tường. Biên Niên Sử Phật Giáo Gia Định-Sài Gòn. Nxb TP.HCM, 2001.
4. Thích Đồng Bổn. Danh Tăng Việt Nam. Tập I. Nxb TP.HCM, 1995.
5. Tập Kỷ Yếu Hội Phật Giáo. Đuốc Tuệ xb. Hà Nội 1936.
6. Vân Thanh. Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam. Tác giả xb. Sài Gòn 1974.
7. Trần Tri Khách. Niên biểu Phật Giáo Việt Nam. Webside Thích Quảng Đức, 2002.
(Bài
tham luận Hội thảo Khoa Học Sa-môn Thích Trí Hải do Viện Nghiên Cứu Tôn
giáo và Phân Viện Nghiên Cứu Phật Học VIỆT NAM tổ chức tại Hà Nội ngày
27-06-2006)