Đại
Trưởng lão Hòa thượng Thích Huyền Quang - Viện trưởng Tu viện Nguyên
Thiều, bậc Trưởng lão Tôn túc của tỉnh Bình Định, của Phật giáo Việt
Nam.
Ðại
Trưởng lão Hòa thượng Thích Huyền Quang sinh ngày 19 tháng 9 năm 1919,
tại xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, xuất thân từ một gia
đình sống về nghề nông và tiểu thương. Ngài đã theo đuổi việc học liên
tục từ lúc 6 tuổi cho đến 26 tuổi. Lúc nhỏ hấp thụ nền văn hóa Khổng
Mạnh, cho đến năm 13 tuổi Ngài xuất gia. Ngài đã từng đi nhiều nơi và
hiểu biết tường tận cả hai miền Trung và Nam Việt Nam.
Năm
1932, lúc 13 tuổi, Ngài xuất gia và trở thành một tu sĩ Phật giáo. Từ
năm 13 đến năm 19 tuổi Ngài theo học Phật học với Hòa thượng Chí Tâm,
Hòa thượng Bích Liên, các Sư huynh Huyền Chiếu, Bảo Phong và cư sĩ Thám
Mai. Đến năm 1939, Ngài được đưa vào học tại Phật học đường Lưỡng
Xuyên, tỉnh Trà Vinh. Sau đó Ngài được cử ra học và tốt nghiệp tại
trường Đại học Phật giáo Báo Quốc - Huế.
Sau
khi hoàn tất chương trình Đại học Phật giáo, vào năm 1945, với tuổi 26,
Ngài đã tham gia phát động và lãnh đạo phong trào Phật giáo cứu quốc
tại Bình Định và Liên khu V (các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định
và Phú Yên)…
Hiệp
định Genève ký kết vào năm 1954, Pháp rút khỏi Việt Nam, đất nước bị
chia cắt, Ngài được cung thỉnh làm Giám đốc Tăng học đường Trung phần
tại Nha Trang cho những năm 1955-1957, và trong thời gian này Ngài được
mời làm Tổng Thư Ký Phật Học Viện Hải Đức - Nha Trang.
Năm 1958, Ngài giữ chức Phó Hội trưởng Hội Phật giáo Trung phần kiêm Hội trưởng Phật giáo tỉnh Thừa Thiên.
Năm
1962, Ngài trở về Bình Định, giữ chức vụ Hội trưởng Phật giáo tỉnh Bình
Định. Cũng trong thời gian này, Ngài và chư Tăng trong tỉnh thành lập
cơ sở đào tạo Tăng Ni cho bản tỉnh và các tỉnh lân cận. Phật học viện
Nguyên Thiều được thành lập, Ngài được cung thỉnh làm Giám viện.
Cũng
từ năm 1962 này, Ngài dẫn đầu phong trào đòi tự do tín ngưỡng, chống kỳ
thị tôn giáo dưới thời Ngô Đình Diệm tại Bình Định rồi sau đó vào Sài
gòn hoạt động và làm Thư ký Ủy ban liên lạc bảo vệ Phật giáo. Ngài bị
bắt giam vào ngày 20.8.1963 tại Sài Gòn và được thả ra sau ngày đảo
chính 1.11.1963.
Sau
biến cố 1963, Ngài trở thành người lãnh đạo trong Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất, được hình thành vào năm 1964. Trong vòng 10 năm
sau đó, Ngài giữ trách vụ Tổng Thư ký viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất. Trong thời gian này, Ngài đã tham dự các cuộc hội
thảo của Phật giáo Quốc tế được tổ chức khắp nơi trên thế giới (Tokyo
1970, Geneva 1973, Brussels 1974…)
Năm
1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất mà ngài là một thành viên
đã tham gia thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng 8 tổ chức, giáo
hội, hệ phái khác. Tuy nhiên, Ngài cùng một số vị khác không tham gia
vào Giáo hội mới.
Tháng
10/2003, một số Tăng Ni hải ngoại họp tại Tu viện Quảng Đức (Australia)
suy tôn Ngài vào vị trí Đệ tứ Tăng thống của GHPGVNTN mới - Giáo hội
này hiện chưa được pháp luật Việt Nam công nhận.
Tháng
3 năm 2003, Ngài ra Hà Nội chữa bệnh. Trong thời gian dưỡng bệnh tại Hà
Nội, Ngài tiếp xúc với ông Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thủ
tướng chính phủ Phan Văn Khải và nhiều vị đại diện Giáo hội Phật giáo
Việt Nam. Sau đó Ngài đã đi thăm nhiều chùa ở Hà Nội, Huế, TP. Hồ Chí
Minh.
Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã dịch và sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị như:
- Thiền Môn Chánh Độ; - Sư tăng và Thế nhơn ; - Nghi cúng chư Tổ và Chư vị Cao Tăng; - Đạo Tràng Công Văn Tân Soạn ; - Thiếu Thất Lục Môn ; - Phật Pháp Hàm Thụ, v,v.
Phần lớn những tác phẩm và dịch phẩm này chưa được xuất bản và môt số khác bị thất lạc.
Sau thời gian
lâm trọng bệnh, Hoà Thượng đã thu thần viên tịch lúc 13 giờ 15 phút
ngày 5/7/2008, tức ngày 3/6 Mậu Tý, tại Tu viện Nguyên Thiều, huyện Tuy
Phước, tỉnh Bình Định, trụ thế 89 năm, pháp lạp 69.
Trước
khi viên tịch, Ngài tu hành tại chùa Nguyên Thiều ở Bình Ðịnh, trước đó
tại chùa Quang Phước ở Quảng Ngãi (1982-1994), chùa Hội Phước ở Quảng
Ngãi (1994-2003)
Chư Tăng Bình Định |