
Hội
chùa La cũng là hội chùa Đức La và chùa Vĩnh Nghiêm ở thôn Đức La, xã
Trí Yên, huyện Yên Dũng. Cả 3 cái tên này thì chỉ có Vĩnh Nghiêm là tên
chữ của chùa, còn lại 2 tên kia là tên thôn sở tại của chùa. Có điều
trong 3 tên đó thì nên dùng Vĩnh Nghiêm để gọi vì chùa này nổi tiếng cả
nước với cái tên ấy. Còn dùng để gọi hội thì dùng tên hội chùa La hay
hội chùa Đức La cũng vậy bởi La là tên nôm đơn , Đức La là tên Hán
Việt.
Hội chùa La tổ chức vào ngày 14 tháng 2 âm lịch hàng năm. Ngày này các sư gọi là ngày giỗ tổ nên cũng gọi là hội giỗ tổ chùa La.
Chùa
Vĩnh Nghiêm là ngôi chùa cổ nổi tiếng có từ thời Lý, Trần (thế kỷ XII -
XIII) thuộc dòng Thiền phái Trúc Lâm. Chùa này nằm ở chỗ hợp lưu của
sông Lục Nam và sông Thương. Khu vực này năm xưa còn gọi là khu vực ngã
ba Phượng Nhãn. Chùa nhìn ra ngã ba sông và nhìn về phía Lục Đầu Giang
- Kiếp Bạc. Phía sau chùa là thôn Đức La xa hơn nữa là vùng Cẩm Lý cửa
ngõ ra vào vùng núi Yên Tử. Bao quanh chùa có một số núi lớn tiêu biểu
là núi Cô Tiên. Ra vào chùa có thể đi theo sông Thương, sông Lục Nam và
con đường quốc lộ 31 đi Trí Yên (Yên Dũng). Do thuận tiện giao thông
như vậy nên khách thập phương đến hội không có trở ngại.
Trong
ngày hội (14/2), các tăng ni ở chùa thắp hương tụng kinh, niệm phật ở
tam bảo, nhà tổ đệ nhất và nhà tổ đệ nhị. đồng thời cũng thỉnh chuông
hoăng dương phật pháp vào lúc sớm, tối trong ngày.
Từ ngày 13
trở đi, khách thập phương từng đoàn từ 5, 10 đến 20, 30 người lũ lượt
kéo về chùa. Khách đến chùa trẩy hội hầu hết là các già, các vãi và
thanh thiếu niên nam nữ. Hàng quán được mở tạm dọc theo đường từ tam
quan vào đến nhà tiền đường. Trong khu vực nội tự, không có hàng quán
nhưng đông các đoàn dâng hương hành lễ. Xen lẫn trong đó các đội văn
nghệ của làng biểu diễn tích chùa.
Tổ Chúc Lâm ở Chùa Vĩnh Nghiêm là ba vị :
- Giác Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông
- Thiền Sư Pháp Loa
- Thiền sư Huyền Quang
Về
ba vị tổ này, trong một số tấm bia cũ, ở đoạn nói về thời Lý đã ghi :
Vua Lý Thái Tổ mở ra chùa chiền . Tăng đồ thịnh hành là thời kỳ đạo
phật đại hát đạt. Song không có bia để lại . Chỉ được nghe đại lược như
vậy.Ở đời Trần , thì xem trong truyện ký có vua Trần Nhân Tông , cũng
là con trưởng vua Thánh Tông lên năm Mậu Dần , đổi niên hiệu là là
Thiên Bảo ( 1279- 1284). Ngài là người nhân từ có trí thao lược ,xứng
đáng đứng đầu thời nhà Trần , nhưng lúc muộn việc nhàn rỗi , phái mời
thiền khách đế giảng giải nghiên cứu tâm tông , tham khảo Tuệ trung
thượng sỹ, đi sâu vào thiền cốt . Sau nhường ngôi cho Anh Tông ( theo
sử ký : ở ngôi 5 năm , xuất gia 8 năm ).
Năm Kỷ Hợi , Hưng Long
thứ 7 (1299) ngài đi đường tắt vào núi Yên Tử , sửa lại Đầu Đà Hạnh ,
tự hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà tinh xã. Mở khoá giảng về Phật pháp
tăng nữ đến học đông đúc. Năm Giáp Thìn , Hưng Long thứ 12 (1304), ngài
đi chu du khắp các đạo , tìm người kế thừa đạo pháp. Khi đi qua sông
Nam Sách , thấy đứa con ông thần dân nặc danh là Kiên Cương, ngài lấy
làm lạ nói: ”Chú bé này có đạo nhân’, bèn ban cho tên Thiện Lai, đưa về
am Kỳ Lân, cắt tóc, cho thụ giáo tâm thiên, học kinh hiểu rộng được ban
tên hiệu là Pháp Loa. Ngày 11 tháng giêng năm thứ 16 Điều ngự đăng đoàn
thuyết pháp ở chùa Bảo Ân chuyện Siêu Loại. Giảng xong bèn đi xuống dắt
Pháp Loa lên toà, thay sư vái đáp lễ, xin trao cho y bát, khoác áo rồi
Điều Ngực trao cho sư tiếp nối trụ trì chùa Siêu Loại - Sơn môn Yên Tử
thành đời thứ 2 của phái Trúc Lâm. Vua Trần Anh Tông nhiều lần gửi tờ
điệp cho sư. Sư thường tuý tăng không câu lệ luật thường.
Tháng tư Điều Ngự đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang làm lễ kiết hạ, lệnh cho Pháp Loa trụ trì.
Điều
Ngự giảng truyền Đăng Lục, lệnh cho quốc sư (Pháp Loa) giảng Pháp Hoa
kinh cho chúng tăng. Hết khoá hạ thì xong. Điều Ngự vào núi Yên Tử đến
nằm ở Am Ngoạ Vân - ngày 1-11 bổng dưng ngài hoá. Anh Tông Hoàng đế
kính dâg tên hiệu: Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác
Hoàng Điều Ngự Phật tổ.
Năm thứ 21, Quý Sửu (1313) Pháp Loa
phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm, định chức tăng trong thiên hạ và đặt
nơi dựng ở chùa một năm. Sau cứ ba năm một lần làm như vậy, nên tăng ni
giáo xuống vài ngàn.
Ngày 13 - 2 năm Canh Ngọ, niên hiệu Khai
Hựu thứ 2 (1330) Pháp Loa về viện Quỳnh Lâm, bèn đem những điều mà Điều
Ngự đã truyền trước đây là giá trạng và tả tâm kệ truyền cho sư Huyền
Quang dạy rằng phải gìn giữ lấy. đến ngày 3-3 Pháp Loa cầm bút viết kệ
xong, không bệnh qua đời . Thái thượng Hoàng gia phong hiệu cho sư là
Tịnh trí tôn giả, gọi là pháp viên thông.
Theo Huyền Quang tam
tổ thực lục : thuỷ tổ Huyền Quang ở hương Vạn Tải, Vũ Ninh , Bắc Giang
là Ly Ân Hoà , Làm quan cho triều Lý Thần Tông . Đến tổ đời thứ sáu là
Quang Dụ làm chuyển vận. sứ ở triều trần . Quang Dụ sinh được bốn người
con trai ; con út là Tuệ Tổ , Tức bố đẻ của ngài . Mẹ ngài mang thai 10
tháng , đẻ ra đã đĩnh dị , đặt tên là Đạo Tái; 9 tuổi đã giỏi văn
chương. 21 tuổi đỗ đầu khoa thi đại tỉ, được tiếp Bắc Sư . Văn chương
ngôn ngữ hơn hẳn thượng quốc . Khi ấy có theo vua đến chùa Vĩnh Nghiêm
ở Phượng Nhỡn thấy quốc sư Pháp Loa hành pháp , lập tức giác ngộ tiền
duyên ngài cảm khái nói rằng : “Phú quý vinh hoa rồi cũng hết như lá
vàng mùa thu , mây trắng mùa hạ , làm sao mà giữ mãi được ?” Nhân đó ,
ngài nhiều lần dâng biểu từ chức xuất gia, đến thụ giáo Pháp Loa thiền
sư, lấy pháp hiệu Huyền Quang đi tìm danh lam trong nước, chăm pháp
hương ở Pháp toà, giảng kinh truyền thụ cho môn đệ. Sau ngài đến Côn
Sơn và mất ngày 23 tháng giêng năm Giáp Ngọ. Minh Tôn hoàng đế họ tên
thuỵ là: Trúc lân thiền sư đệ tam đại. Đặc biệt phong tư pháp Huyền
Quang tôn giả.
Chùa Vĩnh Nghiêm hiện có các toàn chính là: Toà
Thiên đường, toà thượng điện nhà tổ đệ nhất gác chuông, nhà tổ đệ nhị
và một số công trìn khác. Chùa có quy mô lớn. Trong ngày hội, mội người
đều được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của công trình kiến trúc này và thắp hương
niệm phập ở các toà và tưởng niệm 3 vị sư tổ của thiền phái Trúc Lâm ở
toà tổ đệ nhất.
Trong toà tổ đệ nhất hiện nay có một tượng hậu
đặt ở phía ngoài, 2 gian bên. Ba tổ Trúc Lâm đặt ở hậu cung thẳng trục
gian giữa vào sân bên trong. Mỗi người đến hội, tuy chỉ một nén hương ở
chốn này mà kỳ thực như đã tưởng nhớ tới các vị thiền sư có công khai
sáng thiền đạo nơi đây.