Liệu có thể tìm một dạng học
thuyết mô tả được thống nhất các hiện tượng vật lý và những hiện tượng
thuộc phạm vi tâm linh. Đó sẽ là một dạng lý thuyết thống nhất lớn mà
con người có thể nghĩ đến.
Sanh
tử là vấn đề được đề cập trong các hệ thống giáo lý của tất cả các tôn giáo và
trong triết học siêu hình. Từ trước, sau và ngay thời Đức Phật, vấn đề này thường
được bàn luận với nhiều quan điểm khác nhau
được đưa ra.
Kinh sách Phật Giáo thường sử dụng các
thuật ngữ như "tước đoạt sự sống" hay làm "phương hại đến sự sống" của
một chúng sinh nhằm tránh không dùng chữ "sát sinh" mang tính cách quá
hung bạo. Thuật ngữ "tự tước đoạt sự sống" của tựa bài viết cũng nhằm
vào mục đích đó, tức là tránh không dùng chữ "tự tử", và đồng thời cũng
để hưởng ứng lời kêu gọi của Tổ Chức Y Tế Thế Giới – World Health
Organization (WHO) của Liên Hiệp Quốc đề nghị các giới truyền thông
không nên sử dụng một thuật ngữ có hàm ý gợi lên một hành động cần phải
tránh.
Vũ
trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi
chưa bao giờ được xếp lại. Vật lý lượng tử là ngành khoa học luôn tiên
phong trong việc mở hướng nhìn ra ngoài thế giới. Nhiều định luật đúc
rút từ những công trình khám phá vũ trụ đã làm thay đổi nhận thức về vạn
vật. Đơn cử để kết luận nước có tri giác, hiểu được ý nghĩ con người, tiến sĩ Masaru Emoto đã thí nghiệm hàng trăm nghìn mẫu nước, mà không mẫu nào ở dạng “vô trí”.
Học Duy Thức Học để vận dụng thực hành là tôn chỉ hàng đầu
cuả người tu Phật. Trên cơ sở những yếu lý trong Duy Thức Học, quán
chiếu sự vận hành, những quy luật biến hóa của Thức, giản trạch và
chuyên nhất vào sự thực hành, gạn đục khơi trong; nếu không sẽ quay
cuồng trong sự tạo tác( sanh y) và sự giải thoát sẽ khó có được trong
tầm tay.
Long Thọ (Nagarjuna) sinh ra vào khoảng thế kỷ II – III TL tại Ấn Độ, khi
xã hội có những biến động về kinh tế, chính trị, tư tưởng...Ngài đã sáng tác Trung
quán Luận là một bộ luận quan
trọng nhất, với triết lý Tính Không, với biện chứng pháp phủ định độc nhất vô
nhị. Nguồn gốc tư tưởng Đại thừa Phật giáo đã có từ thời
Đức Phật còn tại thế. Tư tưởng Đại thừa ban đầu bắt nguồn từ phía Nam Ấn Độ, nơi
căn cứ của Đại Chúng Bộ. Cũng ở đây đã nảy nở ra tư tưởng “Bát Nhã”, cội nguồn
của tư tưởng “Không”.
Tánh
“không” là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo
và cũng là học thuyết bị người khác hiểu sai lầm nhiều nhất. Họ thường
không hiểu rõ hay ngộ nhận ý nghĩa của hai chữ sắc và không trong đạo
Phật. Họ lẫn lộn hoặc lợi dụng vào hiện tượng đồng âm dị tự trong tiếng
Việt và Hán Việt, đánh đồng hai khái niệm hoàn toàn khác nội dung làm
một, để bôi bác giáo lý của đạo Phật. Hai khái niệm đó là – phủ định từ
“không” – đối lập với có, và tính “không” (sunyata) tức tính “không thực
thể” của mọi sự vật hiện tượng.
Trong các bộ luận nổi tiếng của Ngài thì Trung
Quán Luận là xuất sắc hơn cả. Bởi lẽ, nó chứa một nội dung tư tưởng triết
học với Tính Không, Trung Đạo, Giả danh, hay duyên khởi là căn bản. Duyên Khởi
ra đời giúp cho mọi mười hiểu được các sự vật, hiện tượng (pháp) trên thế gian
này đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, thực tướng của nó là vô tướng, nên quán
như thế thì sẽ thoát ra khởi sự “chấp pháp: chấp đại thừa và chấp tiểu thừa. Và Duyên khởi trong Trung Quán Luận ảnh hưởng tới Thiền Phật giáo thời Lý - Trần.
Một trong những đặc tính quan trọng của giáo pháp Đức Phật là giúp người
hành trì có được an lạc trong hiện tại. Những người không hiểu Phật pháp thường
cho rằng tu theo đạo Phật là hướng đến một thế giới khác, đó là cõi Cực lạc hay
Niết-bàn. Do nhận thức sai như thế nên không ít người cho đạo Phật là tiêu cực,
bi quan, yếm thế.
Các tin đã đăng: