Không biết trời núi Kim Sơn bên ấy dạo này ra sao? Buổi sáng mây trời
chắc vẫn còn về che phủ rừng thông cao. Tôi về bên này được mấy hôm lại
cứ nhớ về bên ấy. Mà cuộc đời bao giờ cũng vậy, hết nghĩ bên này rồi lại
nhớ bên kia. Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai
bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu. Vào ngày mưa có
những chiếc lá ướt vàng, tím, đỏ... phủ ngập lối đi. Trời bên này vào
thu lạnh lắm, nhưng không biết đã lạnh bằng bên ấy chưa!
Trong những tác phẩm nói về đời sống ở Ấn Độ, thường có một khía cạnh
mơ hồ mà tôi xin cố gắng giải thích để quí vị độc giả được am tường.
Những du khách xưa và nay đi du lịch bên Ấn Độ trở về đều có tường
thuật những chuyện lạ lùng về các nhà đạo sĩ (yogi) hay thuật sĩ (fakir)
của xứ ấy. Những câu chuyện mà chúng ta vẫn nghe quen tai về hạng
người bí mật, thường được gọi là đạo sĩ hay thuật sĩ đó, có chứa đựng
một phần nào sự thật chăng? Và có bao nhiêu sự thật ẩn giấu sau những
truyền thuyết cho rằng có một nền minh triết cổ truyền của Ấn Độ có thể
đem đến cho hành giả sự phát triển quyền năng đến một mức độ phi
thường?
Âu Á giao thông, hoàn cầu đã thành như một cái nhà chung của anh em
trong nhân loại. Nhưng về phần riêng, chỉ có một mình xứ Tây Tạng là
không dự đến các việc tiếp xúc ở ngoài thôi, mà ở các nước cũng không có
một người nào được vào đến kinh thành Lhassa, là nơi phòng vệ rất nghiêm
và là nơi trung tâm của nền Phật giáo hiện thời. Đạo lý của Phật tổ hiện
nay dồn về xứ Tây Tạng với những kinh điển cao siêu, với những nhà chùa
tráng lệ, với những vị sư đắc đạo hiện tiền.
Văn minh nhà Phật đã làm cho tỏ rạng các nước phương Đông. Ta dầu quên
nhưng sử sách vẫn còn. Sử sách dầu nát, nhưng những đền đài mỹ thuật ở
Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên... cũng hãy còn. Đó là những bằng
chứng rất rõ ràng vậy! Nay ta chớ bôn ba đi tìm đây đó mà không khỏi
lầm to. Chỉ cần ngoảnh lại góc trời Đông Á thì tức thấy ánh sáng thật
của ta, cũng như ta ngó thẳng vào tâm là thấy Phật, việc gì phải tìm
kiếm đâu xa?
Trên thế giới ngày nay có rất nhiều sách vở nói về các vấn đề huyền
linh, và việc sưu tầm sự thật về những bậc chân sư siêu việt làm cho tôi
cảm thấy một sự khích lệ tinh thần để trình bày kinh nghiệm của riêng
tôi về những đấng chân sư của phương Đông. Trong những chương sách này, tôi không có ý định mô tả một tín ngưỡng
hay tôn giáo nào. Tôi chỉ đưa ra một tóm lược những kinh nghiệm cá nhân
về các đấng chân sư, để trình bày những chân lý căn bản quan trọng nhất
trong giáo lý của các ngài.
Những năm gần đây, có một dấu hiệu rất đáng mừng là các tác
phẩm Phật học đã xuất hiện ngày càng nhiều và hết sức phong phú, từ
những trước tác của các vị đại sư cho đến các bản dịch giáo pháp từ Anh
ngữ, Hán ngữ; từ những bài giảng dành cho người sơ cơ đến những tác phẩm
nghiên cứu Phật học chuyên sâu; từ các sách giảng luận về Tịnh độ,
Thiền tông cho đến Mật tông đều có đủ và thường xuyên gia tăng số lượng.
Vì thế, người Phật tử đã không còn phải khó khăn trong việc tìm kiếm và
chọn lựa món ăn tinh thần thích hợp với mình.
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường
khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn
nhất trong cuộc đời khi may mắn tìm được giữa đêm đen một ngọn đuốc soi
đường. Con rùa mù gặp được bộng cây đã khó, nhưng người sinh ra gặp được
Phật pháp còn khó hơn. Muôn nghìn lần tri ân Phật, tri ân thầy tổ, tri
ân bạn bè đồng đạo, tri ân cả cuộc đời thăng trầm của tôi, đã dắt dìu
tôi đi qua những chặng đường dài.
Sau khi Ðức Thế-Tôn thành Ðạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Xa lìa dục vọng, được sự tịch tịnh, là thù-thắng nhất!" Rồi Ngài trụ trong Ðại Thiền-định mà hàng phục ma đạo. Tại vườn Lộc-dã, Ngài chuyển Pháp-luân Tứ Ðế, độ nhóm năm người của Tôn giả Kiều-Trần-Như đều chứng được Ðạo quả. Lại có thầy Tỳ-khưu bày tỏ các chỗ còn nghi ngờ, cầu Phật dạy bảo sự tiến chỉ. Ðức Thế-Tôn ban giáo sắc khiến ai nấy đều được khai ngộ. Họ cung kính chắp tay vâng lời, tuân thuận sự chỉ dạy của Ðức Thế-Tôn.
Sách xưa có câu: Văn chương là phương tiện để ghi chép đạo lý, cũng có
nghĩa là cỗ xe chở đạo. Lại có câu: Nói mà không có văn chương thì lưu
hành chẳng được xa. Vậy bất cứ tôn giáo nào cũng đều cần dùng văn chương
để gửi gắm, phát triển, và truyền bá đạo lý, làm cho đạo lý có thể lưu
lại ngàn đời, truyền xa ra ngoài muôn dặm. Ví như có một thắng cảnh kia,
chân ta chưa từng bước tới, mắt ta chưa được xem qua, có thể nhờ văn
chương của các tao nhân mặc khách miêu tả mà cảnh trí thanh lịch rực rỡ
đều như hiện ra trước mắt, chẳng khác gì ta đã từng đi đến tận nơi vậy.
Trôøi ñaát ngaäm nguøi öôùt leä tangBoùng thieàn môø khuaát aùo maây vaøngToå Ñình Vónh Nghieâm saàu ly bieätChim hoùt ñaàu caønh tieáng thôû than...
Các tin đã đăng:
|