Chương
12. Thực tập của người Phật tử
Lòng mộ đạo
Phần lớn những truyền thống Phật
giáo xem saddhā, “tín tâm”
hoặc niềm tin như là một phẩm chất được cân bằng bởi trí tuệ, và đây là sự sửa
soạn hoặc phần bổ sung cho việc thiền định. Đây là điều kiện cần có, lòng mộ
đạo giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của đa số Phật tử. Trong khi lòng
mộ đạo thường có tính chất thiền, nó được sắp hạng một cách chính thức trong
“đạo đức” bộ ba “đạo đức, thiền định và trí tuệ”.
Trọng tâm và nơi chốn
để bày tỏ lòng mộ đạo
Lòng mộ đạo đối với các vị Phật
và các vị Bồ Tát được chú trọng hoặc chuyển tải bằng cách sử dụng những vật do
người tạo ra như các hình tượng. Ở nhà, lòng mộ đạo có thể được bày tỏ trước
điện thờ tại nhà, rất giản dị như một cái kệ cao và một bức ảnh nơi một góc yên
tịnh. Ở các chùa, tu viện lúc nào cũng có một gian phòng để bàn thờ hoặc một
hành lang với các hình ảnh, nơi mà những bức ảnh to được treo: trong những
chùa, tu viện của Phật giáo Nam tông, có những ảnh của Đức Phật Gotama, đôi lúc
có thêm hai vị A-la-hán đệ tử lớn ở hai bên; trong chùa, tu viện của Đại thừa
thường có một nhóm ba vị Phật, hoặc một vị Phật và hai vị Bồ Tát, có thể có
thêm hình ảnh của mười sáu hoặc mười tám vị đại đệ tử A-la-hán sắp dọc theo
tường hành lang. Lúc nào cũng có chỗ ở cho các tăng sĩ nam cũng như nữ, hoặc
như ở Nhật Bản, các vị tăng lữ lập gia đình. Như vậy, các chùa thật ra là tu
viện chùa chiền, Phật giáo Nam
tông thường dùng từ Pali, vihāra
để nói đến chùa hay tu viện. Thường thì có một tháp (stūpa) bất cứ ở dạng nào, kể cả dạng
nhiều mái che phát triển ở Trung Quốc, được phương Tây gọi là Pagoda. Phần lớn
các tháp (stūpas) được xây
không có lối vào, trừ các tháp với dạng nhiều mái che như ở Đông Á châu. Tháp
có thể cao chừng một thước, với những tháp lớn hơn được xem là điểm đặc trưng
chủ yếu của chùa.
Ở Rangoon thủ đô của Miến Điện, tháp nổi tiếng
là Shwe-dāgon, tháp cao 112 thước (xem Hình 6). Được cho rằng có chứa đựng vài
sợi tóc của Đức Phật Gotama, và các đồ dùng cá nhân của ba vị Phật trước đó. Vì
tính chất thiêng liêng của những vật nầy, tháp được đóng khung bằng vàng lá, và
ở chóp đỉnh một hình cầu nạm kim cương.
Các chùa cũng có thể có: chỗ họp
mặt/ giảng đường; một hành lang riêng cho việc thiền định, như trong các tu
viện Zen; một cây Bồ đề như vô số các chùa Phật giáo Nam tông; một thư viện và
những cơ sở hành chánh, và cuối cùng là các điện thờ một vị trời hay các vị
trời hoặc các thần linh thiên nhiên. Phần lớn các chùa được tự do thành lập,
nhưng qua những mảnh đất Phật giáo trên thế giới, còn có những động thiên nhiên
hoặc đặc biệt được khai quật, mà bên trong rất mát mẽ, yên tịnh, đẹp có thể
dùng làm chùa, những hình ảnh có tính cách sùng đạo được một cá nhân hay một
cộng đồng trả phần chi phí. Trường hợp nào cũng vậy, cộng đồng có thể góp phần
để làm những tượng đẹp hơn; ở miền Đông Nam Á châu, các hình ảnh dần dần được
mạ bởi những mẫu vuông vàng lá do một cá nhân dâng tặng. Vì khi cho là phát
sanh ra “công đức”, có thể được san sẻ, các tượng ảnh có thể được dâng tặng một
cách đặc biệt, có thể là trong trường hợp có được một đứa con vừa chào đời, một
người thân vừa mất, làm ăn phát đạt, hoặc chiến tranh vừa chấm dứt. Vào năm
1961, chính quyền Miến Điện sắp xếp xây dựng tất cả 60.000 tháp (stūpas) bằng cát để ngăn chận thiên tai
được tiên đoán bởi các nhà chiêm tinh ở Á châu. Động cơ phát sanh ra “công đức”
cũng có nghĩa là chùa có nhiều hình tượng hơn họ “cần”, và những tháp mới có
thể được xây bên cạnh những tháp đang đổ nát. Bởi vì niềm vui khi xây dựng một
cái gì mới thường lớn hơn là việc sửa lại một cái gì đó đã cũ. Niềm vui lớn hơn
để lại một “ấn tượng” hoàn toàn mới mẻ nơi tâm thức, và như vậy sản xuất ra
những quả nghiệp với phẩm chất tốt hơn. Ở Miến Điện, “người xây tháp” có được
một địa vị đáng tôn trọng, và “công đức” xây tháp rất phổ biến nên bất cứ ở
đâu, người ta cũng có thể thấy sự hiện diện của các tháp.
Lễ lạy, tặng phẩm và
tụng kinh
Phần đông những hành động mộ đạo
của Phật tử không nằm trong bản chất có tính chất giáo đoàn, dù người Phật tử
thường có cơ hội đến chung với nhau để cùng san sẻ hoạt động và kinh nghiệm.
Tại nhà, người Phật tử lễ lạy vào buổi sáng và/ hoặc buổi chiều. Thăm viếng
chùa, và tu viện có thể vào bất cứ lúc nào, dù phần đông họ thường đến chùa vào
dịp lễ lớn, hoặc vào những ngày lễ kỷ niệm đặc biệt. Lúc viếng chùa, một người
thực hiện những động tác để bày tỏ sự thành kính đối với “tam bảo”. Đức Phật
được giới thiệu bằng hình ảnh, tháp và cây Bồ đề; Pháp (Dharma) được giới thiệu bằng một bài
pháp, hoặc những lời giảng không nghi thức do các tăng sĩ nói ra, và Tăng đoàn
(Sangha) được tượng trưng với
các tăng sĩ. Lòng mộ đạo ở nhà hay ở chùa được bày tỏ bằng nghi lễ (pūjā): “sùng kính” hoặc “tôn trọng” gồm
có việc lễ lạy, dâng tặng phẩm, và tụng kinh.
Trong những nền văn hóa Phật
giáo, dân chúng cúi lạy trong nhiều dịp. Con cái cúi chào cha mẹ và thầy giáo;
người lớn cúi chào các tu sĩ nam và nữ, các lạt ma (bLamas) và những người lớn tuổi; và các tu sĩ cúi chào
những người đã thọ giới lâu hơn. Đầu cúi thấp là công nhận người khác có nhiều
kinh nghiệm về đời sống cũng như có nhiều thực tập tâm linh hơn chính mình, nhờ
vậy phát triển được lòng kính trọng, và khiêm nhường. Vì vậy, đây là điều tự
nhiên, cúi chào trước những vật có tính chất thiêng liêng hướng về một thực tại
cao nhất, và vì thế người ta hay để tượng ảnh Phật trên “chỗ cao” trong phòng. Trong
phòng để bàn thờ hoặc ở chung quanh tháp, hoặc nơi cây Bồ đề, sự khiêm nhường
cũng được bày tỏ bằng cách không mang giầy dép; vào thời xưa, mang giầy là một
dấu hiệu của sự giàu sang và có địa vị.
Cúi đầu ba lần trước những vật
có tính chất thiêng liêng là bày tỏ sự kính trọng đối với “ba nơi nương tựa”. Một
người đứng hay quỳ gối với hai bàn tay chắp vào nhau trong tư thế cung kính (namaskāra). Đôi tay để ở ngực và trán
hoặc ở Phật giáo Bắc tông, nơi đầu, môi và ngực: biểu tượng sự kính trọng dâng
lên với tinh thần, lời nói và thân thể. Lúc quỳ gối, một người đặt cùi chỏ, tay
và đầu trên nền nhà. Ở Phật giáo Bắc tông, một dạng đầy đủ hơn là “sự phủ phục
lớn”, nghĩa là lạy nằm trên đất. Sự thành kính cũng được bày tỏ bằng cách đi
nhiễu vòng quanh tháp, cây Bồ đề và chùa, nơi mà việc lạy nằm được lặp lại
nhiều lần ở Phật giáo Bắc tông. Ở Phật giáo Đông phương cũng thế, một thực tập
quan trọng là cúi lạy nhiều lần trước hình tượng với tinh thần đang hối lỗi.
Những lễ vật thường được kèm
theo với những câu tụng kinh thích nghi. Cùng với nhau, tặng phẩm và việc tụng
kinh kích thích những phẩm chất vui vẻ, thành tâm, lặng ngắm một sinh vật thánh
thiện, và khát vọng cho sự tiến triển tâm linh. Những hành động nầy sanh ra
“công đức”. Thường tặng phẩm là những bông hoa. Một câu tụng dâng hoa của Phật
giáo Nam
tông bằng tiếng Pali, với ý nghĩa như sau:
Những
bông hoa nầy, tươi thắm, thơm tho được chọn lựa
Tôi dâng
lên dưới chân hoa sen của Bậc Chánh Giác
Với
những bông hoa khác loại, Phật/ Pháp/ Tăng tôi hằng kính ngưỡng;
Và nhờ
vào “công đức” nầy được sự giải thoát
Như cánh
hoa nầy đang héo tàn, rồi đây cơ thể tôi cũng đi đến sự hoại diệt.
Nơi đây bao gồm sự thành kính
vui vẻ, sự hứng khởi, và suy nghĩ về sự vô thường của đời sống con người. Một
câu thơ Zen dâng hoa mong mỏi rằng “những bông hoa của tinh thần” cần “nở rộ
trong mùa xuân tỉnh thức”.
Mùi dễ chịu của nhang thường
tiếp đón một người khi họ vừa bước vào chùa Phật giáo. Một câu thơ Pali về dâng
nhang nhắc đến việc “thân thể Đức Phật có mùi thơm với khuôn mặt có vô số đức
tính tốt”. Đây với ý tưởng rằng Đức Phật có “mùi thơm thiêng liêng”: Đức Phật
với dáng điệu nào đó gợi nhớ đến những cá tính huy hoàng và đức hạnh. Nhang
nhắc nhở một người về điều nầy và cũng tạo ra một niềm vui mà ta có thể tập
trung vào Đức Phật.
Một lễ vật thông thường khác là
ánh sáng ở những ngọn đèn nhỏ hoặc đèn cầy, một nhắc nhở rằng các vị Phật là
những sinh vật đã “giác ngộ” hoặc “tỉnh thức” đã đem ánh sáng đến thế gian qua
các bài giảng. Một câu thơ về dâng lễ vật của Phật giáo Nam tông diễn
tả Đức Phật như “ngọn đèn của ba thế giới, người xua tan bóng tối”.
Nơi Phật giáo Bắc tông, đèn bơ
đựng trong đĩa bạc được đốt lên trước tượng ảnh. Có bảy loại lễ vật thông
thường được đặt trước ảnh tượng. Nước “cho khuôn mặt” và “cho đôi chân” tượng
trưng cho sự hiếu khách, trong khi bông hoa, nhang, đèn, dầu thơm và thức ăn
tượng trưng cho năm giác quan, bày tỏ một cách lý tưởng về sự hiến dâng hoàn
toàn nơi thân và tâm của một người mộ đạo đối với việc phát triển tâm linh.
Những lễ vật được đặt trong bảy cái bát, hoặc nước và thóc lúa được mường tượng
như những lễ vật. Người mộ đạo cũng sử dụng những mật ấn (mudrās), những điệu bộ tượng trưng
những lễ vật như bông hoa, đèn hoặc thế giới. Người nầy có thể dâng tặng thêm
một kha-btags (ph.a.kuttha) bằng vải bông trắng hoặc bằng
tơ lụa được biết đến như là “khăn quàng cổ của sự may mắn”, đối với một hình
tượng. Những vật nầy thường được sử dụng như một lễ vật của tình bạn bắt đầu
cho một liên hệ tốt. Ở đây những lễ vật nầy dùng để thiết lập một liên giao
bằng hữu với một sinh vật thánh thiện. Trong tất cả những trường Phật giáo,
việc tụng kinh rất thông thường như là một cổ xe cho sự thành tâm hoặc những
hành động lễ nghi khác. Việc tụng kinh được sử dụng từ lúc ban đầu của Phật
giáo, khi xã hội Ấn Độ ít dùng đến chữ viết, và một người có học thức là “người
nghe nhiều” hơn là “đọc giỏi”. Việc tụng kinh giúp cho trí nhớ được chính xác
về những bài giảng của Đức Phật, vì bài kinh tụng có vần, khuyến khích tinh
thần trôi theo dòng chảy từ chữ nầy sang chữ khác, và thiếu âm tiết, có thể làm
cho vài chữ bị phát âm sai. Đây cũng là môi trường chung mà các lỗi về ghi nhớ
được sửa chửa. Sau khi các bài giảng được ghi xuống, được coi là tốt hơn là
được ghi nhớ, và việc tụng kinh vì vậy cũng trở nên một phần trong cuộc sống
của người mộ đạo.
Việc tụng kinh của người Phật tử
không phải chỉ là hát suông một bài hát buồn đơn điệu. Nhưng trong khi giọng
trầm hay hơi uy nghiêm, bài kinh tụng vẫn giữ được tầm quan trọng với những
khác biệt nhỏ của cường độ và nhịp điệu. Và thật là một ấn tượng sâu sắc khi
một nhóm tu sĩ nam và nữ cùng tụng kinh, dù họ có sử dụng những âm điệu khác
nhau, tất cả đều hòa lẫn vào nhau trong một bản thể hài hòa. Những bài kinh
tụng thường là những ngôn ngữ cổ xưa, như tiếng Pali hoặc cổ ngữ Tây Tạng, vì
như thế các bài kinh có một không khí thiêng liêng. Điều nầy cộng thêm phẩm
chất âm thanh và những ý nghĩ đi cùng, phát sanh ra một hỗn hợp vui vẻ, thanh
cao, thường được cảm nhận với một chút ấm áp ở ngực, và một sự yên tịnh trầm
lắng. Những trạng thái như vậy thường xuất hiện cho cả người nghe, nếu họ thư
giãn và nghe với tâm chú ý. Như vậy, tăng sĩ nam và nữ có thể chuyển tải một
cái gì đó về sự an tịnh trong đời sống tu hành của họ khi họ tụng kinh cho giới
cư sĩ. Vô số tăng sĩ hiểu biết hoàn toàn nghĩa lý của các bài kinh tụng, như họ
hiểu bao quát về một ngôn ngữ thích đáng và có thể giải thích những bài kinh
nầy cho giới cư sĩ. Những bài kinh tụng bằng tiếng địa phương cũng hiện hữu.
Trong tất cả truyền thống, những
bài kinh tụng thông thường nhất là những bài ngắn có thể được nối chung lại
hoặc lặp lại để tạo thành những bài tụng liên tục dài hơn. Một bài tụng của
Phật giáo Nam
tông rất thông thường để ca ngợi Đức Phật Gotama là: “Kính lễ Đức Thế Tôn, Bậc
A-la-hán, Bậc Giác Ngộ viên mãn.” (Namo
tassa bhagavato, arahato, sammā-sambuddhassa). Câu nầy được lặp lại
ba lần và thường được tiếp theo bằng một lời cam kết đối với “ba nơi nương tựa”
và năm giới cấm.
Trong mọi truyền thống, chuỗi
hạt được dùng để đếm những bài kinh tụng. Trong Phật giáo Nam tông, một
câu thần chú được sử dụng chẳng hạn như “du
sa ni ma; sa ni ma du; ni ma du sa; ma du sa ni”. Đây dựa vào những
chữ chánh của Tứ Diệu Đế: dukkha,
samudaya, nirodha, magga. Câu thần chú nầy giúp cho tinh thần được
chú tâm, giữ nó cảnh giác, và mở cửa cho sự hiểu biết. Một bài tụng lần chuỗi
có tính cách mộ đạo được dùng trong Phật giáo Nam tông là “Buddha, Dhamma, Sangha”.
Những nơi nương tựa
Sự bày tỏ quan trọng đối với
Phật giáo là “quy y hay nương tựa”. Công thức xưa của điều nầy bằng tiếng Pali
bắt đầu với: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi,
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Sanghaṃ saraṇaṃ gacchāmi”. Câu nầy xác
nhận rằng “Tôi đến nương tựa vào Đức Phật, tôi đến nương tựa vào Pháp, tôi đến
nương tựa vào Tăng.” Mỗi lần xác nhận là lặp lại “đây là lần thứ hai… ” (dutiyam pi…) và “đây là lần thứ ba… ” (tatiyam pi…). Ba lần lặp lại đánh dấu
sự thuộc lòng từ việc sử dụng thông thường của lời nói, và mỗi lần xác nhận là
tinh thần trụ ở ý nghĩa ít nhất là một lần.
Khái niệm về “nương tựa”, nơi
đây không phải là nơi trốn tránh, nhưng là một nơi mà ý nghĩ được thanh lọc,
được nâng cao và tâm trở nên vững chắc. Hướng về những nơi nương tựa nầy đưa ta
đến một cách sống tốt đẹp hơn, được kinh nghiệm như là một nơi ẩn náu của sự
yên tịnh, một “hòn đảo chắc chắn giữa cơn lũ”, ngược lại với những bất an trong
cuộc sống. Những nơi nương tựa nầy nhắc nhở người Phật tử sự yên tịnh, thông
suốt, tâm linh và những tính chất nầy giúp cho trạng thái tinh thần cũng được
như vậy. Giá trị của những nương tựa được ghi nhận với bằng chứng rằng chúng
cũng được gọi là Tiratana
hoặc “Tam bảo”: những kho tàng tâm linh với giá trị tối cao.”
Ý nghĩa của mỗi nương tựa thay
đổi tùy vào những truyền thống khác nhau. Sự hiểu biết của Phật giáo Nam tông được
bày tỏ bằng một bài kinh tụng rút ra từ Bộ Kinh Pali. Về Đức Phật, đây xác nhận
là: Vì vậy người nầy là Đức Thế Tôn: vì người nầy là một vị A-la-hán, hoàn toàn
giác ngộ, có đầy đủ phẩm hạnh và sự hiểu biết, đạt Niết Bàn, biết rõ về thế
gian không một người nào có thể so sánh khi luyện tập cho con người, vị Thầy
của trời và người, Đức Phật, Thế Tôn.” “Đức Phật” nói ở đây là Đức Phật Gotama,
người được kính lễ và ngưỡng mộ vì đã khám phá lại Pháp (Dharma) và cho thí dụ, bày tỏ cho người
khác thấy làm cách nào để kinh nghiệm và sống với Pháp (Dharma). Những lợi ích khi sống với
Pháp (Dharma) được kinh
nghiệm, và sự kính lễ phát triển sâu xa hơn một cách tự nhiên. Một nghi thức tế
lễ được phổ biến của dân Sinha cho rằng, “vì là vô hạn, việc sở hữu các phẩm
chất không thể đo lường, vô địch, ngang bằng với vô địch, trời của trời, Thế
Tôn đối với tôi, là Phật, là mẹ của tôi, cha của tôi, là thiên thể của bình
minh đối với bóng đêm si mê….”3
Nương tựa vào Đức Phật không
phải chỉ đối với Đức Phật Gotama, nhưng là đối với tất cả các vị Phật trong quá
khứ cũng như tương lai, và đối với nguyên tắc của sự tỉnh thức như là sự đạt
đạo đáng giá cao tột. Trong trường hợp nầy, nơi nương tựa thứ nhất có thể được
xem là kim chỉ nam cho khả năng của trí tuệ, phát triển từ nội tại của người
thực tập.
Bài kinh tụng về Pháp (Dharma) bằng tiếng Pali là: “Đức Thế
Tôn đã giảng giải tường tận về Pháp, nhận thấy được ngay nơi đây và bây giờ, vô
thời gian, mời gọi sự điều tra nghiên cứu, hướng về trước mặt (đến những giai
đoạn thiêng liêng và cuối cùng là Niết Bàn), được kinh nghiệm tự nơi bản thân
bởi những người sáng suốt.” Đây nhấn mạnh về Pháp rất dễ gần gũi cho mọi người,
và từ từ sẽ có lợi ích lớn hơn. Pháp (Dharma)
là nơi nương tựa được giải thích như là Con Đường Thánh Thiện (Khp. A.19). Hơn nữa, Pháp nhắc đến: (a)
pariyatti, hoặc nội dung của
giáo pháp, (b) Paṭipatti hoặc
con đường “thực tập”, và (c) paṭivedha,
hoặc “sự hiểu rõ” các giai đoạn thiêng liêng – trong ý nghĩa cao nhất, đó là
Niết Bàn, sau đó, Pháp (Dharma)
là để nghe/ đọc và hiểu, thực tập và thành đạt. Đây là “luật thứ tự” của bản
chất tự nhiên cố hữu, “khuôn mẫu cơ bản” khi hiện tượng xuất hiện tùy thuộc vào
những điều kiện thích nghi theo Lý Duyên Khởi.
Bài kinh tụng của Tăng đoàn bằng
tiếng Pali là: “Hạnh kiểm tốt nơi Tăng đoàn, học trò của Đức Thế Tôn; gìn giữ
phẩm hạnh…; hạnh kiểm sáng suốt…; hạnh kiểm thích nghi…; nghĩa là, có bốn cặp,
tám loại cá nhân; Tăng đoàn… xứng đáng với những tặng phẩm, sự hiếu khách, lễ
vật, và sự chào hỏi kính trọng, một ruộng “công đức” không thể so sánh cho thế
gian.”
Ở đây, “bốn cặp”, “tám loại cá
nhân” là người nhập lưu, người một lần trở lại, người không trở lại, vị
A-la-hán và những người đang trên đường để đạt các “quả” vị tâm linh nầy, nghĩa
là, những ai đã đạt Niết Bàn, thoáng thấy hoặc đang ở bờ mé Niết Bàn. Đây là
một Tăng đoàn Thánh Thiện quý giá, một tăng chúng gồm các bậc “Thánh Thiện” nơi
tu viện Tăng đoàn, một đại biểu tượng trưng cho giới cư sĩ tiến triển về mặt
tâm linh hoặc kể cả các vị trời. Tăng đoàn với hạnh kiểm mẫu mực đáng được cúng
dường và kính lễ; Tăng đoàn tu viện tìm cách để tranh đua trong việc thọ nhận
sự cúng dường.
Khái Niệm về ruộng “công đức”,
là gieo một hạt giống trong mảnh đất tốt để có được quả tốt, vì vậy một món quà
dâng tặng cho một người có đức hạnh phát sanh ra nhiều “công đức”. Ý tưởng nầy
dựa vào bằng chứng là nếu một người cho quà một người khác mà người nầy tính
nết không rõ ràng, người cho có thể sau đó hối hận; trong khi đó dâng tặng cho
một người có đức hạnh hoặc thánh thiện, người bố thí cho với tất cả tấm lòng và
cảm thấy vui với hành động đó. Việc dâng tặng cũng thiết lập một liên hệ về sự
kết giao. Tăng đoàn Thánh Thiện vì vậy mang lợi ích đến cho thế gian với cơ hội
phát sanh ra nhiều “công đức”, thuận lợi và thanh tịnh.
Trong Đại thừa (Mahāyāna), học thuyết “tam thể” cho
rằng nương tựa nơi Đức Phật không phải chỉ nói về Đức Phật Gotama và các Hóa
thân của các vị Phật, nhưng cũng rất quan trọng đối với các Báo thân của các vị
Phật. Nơi trường Tịnh độ, việc nhấn mạnh đầu tiên hoặc đặc biệt là nơi Đức Phật
Amitābha. Nơi trường Ch’an/ Zen việc nhấn mạnh về Đức Phật lịch sử là một thí
dụ sôi nổi và anh hùng, nhưng đặc biệt nhất là ý tưởng về Phật tánh ở bên
trong: “nương tựa nơi tam bảo, nơi bản chất nhiên nhiên của chính mình. Đức
Phật là thức tỉnh, Pháp là chân lý, Tăng đoàn là thanh tịnh… nương tựa vào Đức
Phật bên trong của chính mình… Nếu anh không nương tựa nơi bản chất thiên nhiên
của chính anh, thì không có gì khác để cho anh nương tựa nữa” (Plat. sec.
23).
Hóa thân của các vị Phật cũng có
nghĩa là những ý nghĩ tốt đẹp và sáng suốt trong tinh thần của một người, và
nương tựa vào “Báo thân hoàn hảo ở tương lai ngay chính nơi thân thể thực chất
của tôi.” (Plat. sec. 20). Trong Đại thừa (Mahāyāna),
nương tựa vào Pháp (Dharma)
với ý nghĩa cao nhất của nó là nói về Pháp thân (Dharma-body), thực tại tối hậu. Các vị Bồ Tát Thánh Thiện
cũng được gồm chung trong việc nương tựa vào Tăng đoàn, và nương tựa vào Tăng
đoàn và các vị Bồ Tát là lập nguyện, thường được lặp đi lặp lại trong sinh hoạt
hằng ngày, để trở nên thánh thiện giống các ngài.
Trong Đại thừa (Mahāyāna) của Phật giáo Bắc tông, những
nơi nương tựa khác cũng được sử dụng. Đối với ba nơi nương tựa trước, một người
nương tựa nơi vị thầy Lạt ma của mình, nguồn nhiên liệu của sự hiểu biết sâu
thẳm về những nơi nương tựa khác và xem các nơi nương tựa là hiện thân của các
phẩm hạnh. Sau những nơi nương tựa thông thường, một người có thể nương tựa nơi
vị Hộ thần (yidam) của mình,
một sinh vật thánh thiện là vị thần bảo trợ. Một tín đồ sửa soạn cho việc thực
tập thiền, hình tượng hóa, cần phải có những thực tập dẫn nhập đầy đủ và bản
chất thành tâm, mộ đạo và thanh tịnh. Năm hoặc sáu cách thực tập thường được
thực hành, mỗi thực tập phải được thi hành 100.000 lần. Một là “lạy nằm”, tay
cầm những khúc cây vuông (hoặc một miếng cây đặc biệt) để bảo vệ đôi tay không
bị phồng da trong tư thế trườn xuống đất nhiều lần. Khi lạy nằm, người thành
tâm có thể nói: “Tôi, tên gì đó, thay mặt các chúng sinh và dâng tặng không kềm
giữ, thân, miệng, ý, cúi lạy đất với lòng thành kính đối với vị Thầy và Tam
bảo.” 4 Cùng với sự xác nhận nầy là việc hình tượng hóa “cây nương tựa”: sự tụ
hội của những sinh vật thánh thiện mà ánh sáng rạng rỡ tràn ngập người mộ đạo.
Sau một thời gian đấu tranh và chịu đau đớn, việc thực tập sẽ đem lại niềm vui
rất lớn. Sự thực tập cũng mang lại một sự cân bằng về việc “tự lực” và “tha
lực”: dựa vào bản thân và vào năng lực của các vị thánh thiện.
Thái độ đối với tượng
ảnh
Nếu không có cách nào khác, thì
những hình tượng luôn có nhiệm vụ là nhắc nhở những phẩm chất tâm linh của các
vị thánh thiện. Khi một người theo Phật giáo Nam tông, chẳng hạn, bày tỏ sự
thành kính trước tượng ảnh của Đức Phật Gotama, người nầy nhớ lại việc Đức Phật
tranh đấu cho sự tỉnh thức, những đức hạnh, giáo pháp, và lý tưởng mà Đức Phật
thể hiện. Người nầy vui vẻ nhớ lại Đức Phật phát triển một tấm lòng ấm áp và
một tinh thần trong sạch. Những phẩm chất tâm linh được bày tỏ ở dạng một hình tượng
đẹp để kích thích người mộ đạo chiêm nghiệm để những phẩm chất nầy có thể xuất
hiện nơi chính bản thân họ.
Trong Phật giáo Bắc tông và Phật
giáo Đông phương, trừ trường Ch’an/ Zen, những hình tượng có nhiều ý nghĩa hơn
là gợi nhớ. Đặc biệt nhất là trong những trường Mật tông, những tượng ảnh ngấm
vào với tâm linh và năng lực và sinh vật mà nó biểu hiệu. Hơn nữa, ảnh và sinh
vật “gặp nhau” ở nơi tối cao “chỉ là ý nghĩ” hoặc rỗng không, hình ảnh được xem
là hình dáng thật sự của một sinh vật. Như vậy, hình ảnh phải có một dạng có
tính cách truyền thống và biểu tượng được thờ cúng. Ảnh tượng cần được tụng
kinh, cầu nguyện và đọc thần chú; tượng ảnh được đặt đúng vị trí của nó theo
kinh sách hoặc di vật, và những bộ phận nội tạng bằng đất sét được thành hình
và điểm nhãn.
Đây liên hệ đến những âm thanh
và các đồ vật thánh thiện cho tượng ảnh một năng lực để làm tốt và làm nó sống
động, cặp mắt ướt dụ cho sự đáp ứng của một cái nhìn chằm chằm sống động.
Kể cả trong Phật giáo Nam tông, một
tượng ảnh ở chùa thường là một điều gợi nhớ; vì thường được cho rằng tượng ảnh
cần phải được thờ cúng trước khi nó có thể là trọng tâm cho lòng kính ngưỡng.
Việc thờ cúng gồm có đặt những di vật vào trong tượng, một vị tu sĩ đọc vài câu
kinh bằng tiếng Pali trước tượng. Ở Tích Lan, những câu nầy được cho là do Đức
Phật nói ra sau khi đạt giác ngộ. Đây hài hòavới việc điểm nhãn thường được
hoàn thành vào lúc năm giờ sáng, thời gian mà Đức Phật Gotama trở nên Bậc Giác
Ngộ. Hai khái niệm nầy dường như muốn nói là những hình tượng được thờ cúng
được xem là một vị đại biểu của Đức Phật hơn là một trình bày về Đức Phật. Những
khái niệm khác của việc thờ cúng làm tăng cường ý nghĩ nầy. Ở Tích Lan, các thợ
thủ công cư sĩ cho việc hoàn thành cặp mắt có liên quan đến năng lực của tượng,
và giống như là điện thế, rất nguy hiểm nếu làm một cách cẩu thả. Những thợ thủ
công sửa soạn cả mấy giờ một cách lễ nghi, và sau đó chỉ nhìn cặp mắt trong
kiếng trong khi vẽ, cho đến khi hoàn thành, cái nhìn đăm đăm được xem là có
hại. Những tăng sĩ Tây phương phủ nhận là không cần thờ cúng những ảnh
tượng.
Thật ra, ở Phật giáo Nam tông,
có một niềm tin phổ biến rộng rãi về một loại “sức mạnh của Đức Phật” vẫn còn
tồn tại nơi thế gian khi Phật giáo vẫn còn được thực tập (xem tr.67). Thật vậy,
một quyển sách nhỏ được ấn bản bởi một ngôi chùa Thái ở Luân đôn nói về Đức
Phật như sau: “Cho dù hiện tại hình thể của Đức Phật không còn hiện hữu nữa,
nhưng hình thể tâm linh của Đức Phật, nghĩa là việc làm lợi ích cho kẻ khác và
lòng từ bi vô hạn của Đức Phật còn mãi với thế gian.” Thái độ nầy được phản ảnh
nơi các Phật tử Nam tông, với việc gìn giữ những di vật và các cây Bồ đề như là
một năng lực tốt có tính cách hộ trì. “Sức mạnh của Đức Phật” thường được số
đông tin là có liên quan đến các ảnh tượng, nhất là những ảnh tượng đã được tôn
thờ qua bao thế kỷ, ý muốn nói rằng những ảnh tượng nầy đã thu hút năng lực của
Đức Phật. Những Phật tử Nam tông thiếu học đôi lúc đi quá đà xem tượng ảnh Đức
Phật được thờ cúng như là một người còn sống.
Tụng kinh có tính cách hộ
trì
Trong tất cả các trường Phật
giáo, việc nghe và tụng kinh được sử dụng như một hình thức để được hộ trì. Ở
Phật giáo Nam
tông, những đoạn kinh được tụng gọi là paritta,
hoặc “dấu thần bí an toàn”. Phần lớn là những đoạn được trích ra từ những bài
Kinh Pali, bài kinh thông thường nhất nói về phẩm chất của ba nơi nương tựa,
như đã được chuyển dịch ở trên, những bài kinh phổ biến khác gồm có: Kinh Từ Bi
(Karaṇīya-metta-Sutta), toả
ra những cảm giác tử tế đến tất cả mọi chúng sinh; Kinh Mangala diễn tả những “phước lành” như
một sự giáo dục tốt, tính quảng đại, việc lắng nghe pháp, và đạt đến Niết Bàn (Nibbāna); và Kinh Ratana, kêu gọi sự bảo hộ của các vị
trời và ca ngợi “tam bảo” (xem Khp. 2-6
và 8-7).
Trong lúc phần lớn các paritta được sử dụng như là một bảo hộ
chung chung, những paritta
khác được sử dụng trong lúc đặc biệt gặp hiểm nguy, chẳng hạn như chống lại tử
thần lúc bị rắn cắn, được cho là trong những bài kinh do Đức Phật nói ra với
tính cách đặc biệt là một “paritta”
(Khandha paritta, A. II.72). Thí dụ, các paritta được sử dụng để làm thú dữ
tránh xa, những kẻ tấn công hoặc ma, trừ tà đuổi quỷ, chữa các bệnh, và báo
hiệu hiểm nguy trong trường hợp có tai nạn hoặc thiên tai. Những paritta cũng được dùng để được mùa màng
tốt, giúp thi đậu, ban phước cho một tòa nhà mới xây, hoặc chỉ để tạo “công
đức”. Có những giới hạn cho năng lực của các paritta.
Chúng chỉ có hiệu lực cho những người có đạo đức với lòng tin nơi “ba nơi nương
tựa”, và không thể, thí dụ chữa lành người mang bệnh nếu đây là trường hợp trả
nghiệp (Miln. 150-4). Nơi
những giới hạn nầy, việc sử dụng các paritta
được xem là có liên quan đến một số yếu tố.
Trước tiên, tụng kinh và nghe
một paritta thì cảm thấy dễ
chịu và đưa đến một sự tự tin, một tinh thần trong sạch và thanh tịnh, nhờ vào
phẩm chất âm thanh và ý nghĩa của nó. Khi tinh thần ở trạng thái khỏe khoắn
hơn, ở đây có thể chữa được bệnh căng thẳng thần kinh, hoặc làm cho một người
trở nên tỉnh táo hơn và dễ dàng tránh được những nguy hiểm trong cuộc sống. Thứ
hai, tụng một paritta, nhất
là một paritta nói về lòng tử
tế đối với mọi chúng sinh, làm lắng dịu kẻ thù địch, làm cho một con vật hay ma
trở nên thân thiện đối với người tụng cũng như người nghe. Thứ ba, để tạo “công
đức” mới, tụng một paritta là
kích thích “công đức” ở quá khứ để quả lành xuất hiện tức thời. Thứ tư, tụng và
nghe một paritta là làm vui
lòng các vị trời đã trở thành người kính ngưỡng Đức Phật, vì thế họ sẽ bảo vệ
và giúp đỡ trong năng lực của họ. Cuối cùng, năng lực tâm linh của Đức Phật,
“Người bảo hộ với lòng từ bi rộng lớn” (Mahā-jayamangala
Gāthā paritta), và chân lý mà Đức Phật đã bày tỏ, được xem như vẫn
còn tiếp tục trong những lời của Đức Phật, với ảnh hưởng lợi ích cho việc giải
thoát khi những chữ nầy được tụng với lòng thành kính. Ở đây dựa một phần vào
khái niệm được tìm thấy thấy trong những bài văn trước, “sự đoan chắc về chân
lý” (được bàn luận trong Miln. 119-22).
Bằng cách xác nhận vài đức hạnh chân thật của chính mình hoặc của một người
khác, hoặc công khai công nhận một lỗi lầm, một năng lực làm tốt được thực
hiện, cho lợi ích của chính mình và những kẻ khác. Một điệp khúc ở Kinh Ratana, “do chân lý nầy, nguyện cầu cho
tất cả các chúng sinh được tốt lành!”, câu nầy được lặp đi lặp lại sau khi kể
ra những phần xuất sắc khác nhau của “tam bảo”.
Trong khi một người cư sĩ hay
một người tụng kinh chuyên môn có thể hoạt hóa năng lực của Đức Phật trong
những chữ được tụng, thì việc nầy hiệu nghiệm hơn khi được một tăng sĩ đọc
tụng. Bởi vì những vị tăng sĩ đang thực tập hết mình con đường do Đức Phật chỉ
dạy. Khi các thành viên của Tăng đoàn (Sangha)
tu viện tụng niệm Pháp (Dharma)
do Đức Phật giảng dạy, ở đây có một phối hợp rất là mạnh mẽ, mang lợi ích cho
các cư sĩ đang lắng nghe. Để tượng trưng cho năng lực bảo hộ đến từ nơi các
tăng sĩ, trong khi tụng paritta các
vị nầy cầm một sợi dây. Dây nầycũng được cột vào hình ảnh của Đức Phật, ý ám
chỉ rằng hình ảnh đã được thấm nhuần nơi năng lực của paritta, hoặc tiết ra một ít năng lực
hấp thụ từ trước và cộng vào với năng lực của paritta. Sau đó, các phần của “dây-paritta” được cột nơi cườm tay của các
cư sĩ như là một nhắc nhở, và là một kho chứa đựng năng lực của paritta. Khi cột sợi dây, một câu kinh
bằng tiếng Pali được đọc, có ý nghĩa như sau: “Bằng vào sự oai nghiêm của năng
lực đạt được bởi các vị Phật, Độc giác Phật, và các vị A-la-hán, tôi cột vào
đây sự bảo hộ hoàn toàn.”
Trong truyền thống Đông phương
và Bắc tông, gồm có Ch’an/ Zen, những công thức gọi là đà-la-ni (dhārani) được đọc tụng giống như cách
đọc của các paritta, những
lời nói để “duy trì lâu dài” Phật giáo và bảo toàn các tín đồ. Có những chuỗi
câu và âm vận bằng tiếng Sanskrit, bắt nguồn từ những công thức được ghi nhớ
tóm tắt trong một bài kinh, một đoạn trích ra từ Kinh Pháp Hoa (Lotus Sūtra). Bày tỏ sự thành kính sâu
xa, Nam
tông tụng, “du, sa, ni, ma…”
trong lúc lần chuỗi cũng giống những điều nói trên.
Kính ngưỡng Bồ tát
AvalokiteŚvara
Niềm kính ngưỡng Bồ Tát
Avalokiteśvara đầy dẫy nơi Phật giáo Bắc tông và Đông phương. Bài văn thường
được sử dụng trong nghi lễ là một câu trong bài kinh Bồ Tát Avalokiteśvara (Avalokiteśvara Sūtra), một đoạn trích
ra từ kinh Pháp Hoa (Lotus Sūtra).
Bày tỏ sự thành kính sâu xa, bài kinh nầy nói đến: “Lòng mong ước sự thành kính
chân thật, thanh thản, lòng thương xót có ảnh hưởng sâu rộng ! Ánh sáng chói
lọi thanh bình, trong sạch, ánh sáng mặt trời trí tuệ tiêu diệt bóng tối… luật
thương hại, sấm sét rung động, lòng từ bi vĩ đại như một áng mây to đổ trận mưa
rào tâm linh như mật hoa, dập tắt những ánh lửa của đau khổ!” Những tượng và
tranh vẽ Bồ Tát Avalokiteśvara được tìm thấy rất nhiều, miêu tả Bồ Tát trong
130 tư thế khác nhau, mỗi tư thế nhắm vào việc bày tỏ vài khía cạnh bản tính
của Bồ Tát. Ở Trung Quốc, gọi là Quán âm (Kuan-yin),
“ông” dần dần được trình bày như một nữ nhân. Đây có lẽ vì người Trung Hoa xem
lòng từ bi của ông như một phẩm chất của người nữ; đây cũng có thể một phần vì
sự ám chỉ về người nữ được nói đến trong thần chú của Bồ Tát (xem tr.136). Hơn
nữa, từ thế kỷ thứ năm, vài hiện thân của Bồ Tát là người nữ được phổ biến, và
“ông” cũng có thể nhập vào với vị nữ thần trước Phật giáo chuyên bảo vệ các
thủy thủ. Như vậy, Bồ Tát Kuan-Yin trở thành “Người Mẹ nữ thần” đầy từ bi, một
vị thần phổ biến nhất ở khắp Trung Quốc, được mô tả như một nhân vật thanh nhã,
tay cầm hoa sen với áo choàng trắng (xem Hình 8).
Một dạng nghệ thuật thông thường
ở Tây Tạng và Nhật Bản trình bày Bồ Tát Avalokiteśvara với “một ngàn tay” (vài
tượng, vì lý do thực dụng, có ít tay hơn), và mười một cái đầu (xem Hình 9).
Bảy tay cầm những biểu tượng khác nhau, trong khi phần còn lại tượng trưng cho
những phương tiện thiện xảo vô bờ bến của Bồ Tát. Mỗi tay đều làm mật ấn ((mūdra), hoặc “động tác”, bao hàm ý
nghĩa “không sợ hãi”, và trong lòng bàn tay là một con mắt, tượng trưng cho bản
chất của Bồ Tát là luôn theo dõi canh chừng và sẵn sàng nhanh chóng giúp đỡ các
chúng sinh. Mười một cái đầu được giải thích theo câu chuyện cho rằng khi Bồ
Tát thấy vô số chúng sinh đang đau khổ nơi các địa ngục, sự kinh hãi và nước
mắt của Bồ Tát làm cho Ngài trong khỏanh khắc hơi thất vọng vì lời nguyện cứu
độ tất cả. Đầu của Bồ Tát liền bị chia ra thành mười mảnh, như lời Ngài đã nguyện
nếu từ bỏ quyết tâm của mình. Đức Phật Amitābha liền cứu sống Bồ Tát để Bồ Tát
thực hiện lời nguyện của mình. Làm cho mỗi mảnh đầu là một cái đầu mới, Đức
Phật Amitābha gom tất cả lại và để trên đôi vai của Bồ Tát, và trên cùng hết,
Đức Phật Amitābha làm ra một bản sao của chính cái đầu của mình, biểu tượng cho
Đức Phật Amitābha luôn tiếp tục truyền cảm hứng cho Bồ Tát trong các hoạt động
của Ngài. Với mười một cái đầu, Bồ Tát Avalokiteśvara bây giờ được trang bị tốt
hơn để tìm kiếm những chúng sinh cần được cứu độ! Từ những giọt nước mắt của Bồ
Tát Avalokiteśvara, hai dạng của Tārā được
hình thành.
Kinh Bồ Tát Avalokiteśvara nói
rằng Bồ Tát trong phút chốc sẽ trả lời cho tất cả những người “kêu gọi Bồ Tát
với tất cả tâm tư”. “Do phẩm hạnh năng lực của Bồ Tát”, những người nầy sẽ vào
lửa không bị cháy; được cứu thoát khỏi giông tố của biển cả; những kẻ sát nhân
sẽ trở nên tử tế; người tội phạm, có tội hay vô tội, sẽ được giải thoát khỏi
xiềng xích; người buôn bán sẽ không bị nạn trộm cướp; các thú dữ lánh xa; sẽ
đạt được sự thành công ở nơi tòa án hay trong trận chiến, và một người phụ nữ
sẽ có con đức hạnh, và được con trai hay con gái theo ý muốn. Các người mộ đạo
sẽ được giải thoát khỏi những bám víu, sân hận và si mê bằng cách “luôn nhớ
trong tâm trí hình ảnh của Bồ Tát Avalokiteśvara, những điều nầy được so sánh
với năng lực về tụng niệm những paritta.
Sự giúp đỡ kỳ diệu của Bồ Tát
Avalokiteśvara được hiểu theo nghĩa đen là sự can thiệp ngay ở trong thế giới
nầy, có thể là qua sự giúp đỡ của một người lạ bí mật, hoặc là một ảo ảnh dẫn
dắt người nào qua một đường núi nguy hiểm trong lúc sương mù, và đồng thời cũng
là năng lực niềm tin của người mộ đạo. Kinh Śurangama cho rằng Bồ Tát
Avalokiteśvara giúp đỡ các chúng sinh bằng cách đánh thức bản chất Phật từ bi
nơi chính họ, và để thuận theo ý nầy, bất cứ hành động nào mà tử tế đều có thể
được xem là sự giúp đỡ của Bồ Tát Avalokiteśvara.
Ch’an/ Zen cho rằng “Từ bi là
Kuan-yin (Plat. sec.35), và
thường cho rằng sự giúp đỡ của Bồ Tát là những từ có tính cách nội tại tâm linh:
chẳng hạn “giông tố” là sự tức giận, “lửa” là ham muốn, “xiềng xích” là sự sợ
hãi, bị áp bức là vì thiếu kiên nhẫn, và thú dữ chỉ làm hại những người có ý
xấu. Ch’an / Zen kính ngưỡng Bồ Tát Kuan-yin để “phát triển tâm Bồ Tát
Kuan-yin”: làm tăng trưởng hạt giống từ bi cho đến khi một người trở nên lúc
nào cũng sẵn sàng để giúp đỡ người khác.
Nơi Phật giáo Bắc tông, thần chú
Maṇi (Maṇi mantra-xem tr. 136) rất là phổ
biến để kêu gọi sự giúp đỡ của Bồ Tát Avalokiteśvara và cũng để phát triển lòng
từ bi. Thần chú nầy thường được tụng niệm trên môi những người có lòng kính
ngưỡng Phật giáo, thần chú nầy cũng được sử dụng trong lúc lần chuỗi. Câu nầy
có thể được sử dụng khi một người bắt đầu công việc của họ, niệm thầm theo hơi
thở hoặc thầm thì theo nhịp điệu mà người dân Tây Tạng gọi là “kêu rừ…ừ…ừ”.
Người Tây Tạng cũng hoạt hóa năng lực của thần chú nầy, và tạo ra “công đức”,
bằng cách sử dụng “bánh xe tôn giáo Maṇi”, được phương Tây gọi là “bánh xe
nguyện cầu”.
Câu thần chú nầy được khắc hoặc
vẽ ở phần ngoài của hình trụ ngắn hơn, và được viết nhiều lần trên giấy và cuộn
lại thật chặt để vào bên trong hình trụ. Mỗi một lần trục quay tương đương với
sự lặp lại của những công thức được viết ở bên trên và bên trong trụ, việc nầy
có liên quan đến bài giảng đầu tiên của Đức Phật, gọi là “chuyển bánh xe Pháp”.
Có rất nhiều loại “bánh xe tôn giáo Maṇi” khác nhau. Loại cầm tay có hình trụ
dài chừng 7 phân tây, đặt trên tay cầm dài khoảng 12 phân tây; một cân nhỏ được
cột vào trụ với dây xích dùng để xoay trên một trục quay đặt ở tay cầm. Bánh xe
có chiều cao khoảng 25 phân tây, được sắp theo hàng dọc theo những tháp (stūpas) hoặc tu viện, để cho người ta
có thể quay các bánh xe theo chiều mà họ đi nhiễu vòng. Những bánh xe lớn nhất
được tìm thấy ở ngõ vào các chùa, tu viện, kích thước cao khoảng 4 thước và
đường kính là 2 thước, chứa đựng cả ngàn công thức Maṇi, cùng với những bài
viết và hình ảnh. Cũng có những bánh xe được quay bằng những con suối hoặc khói
của lò sưởi. Thần chú Maṇi cũng được khắc trên ụ đá đặt ở đỉnh núi, hay khắc
trên mặt đá bên cạnh những con đường, trên đường dài đặc biệt được xây khi gần
đến các tỉnh của thành phố, và được in trên những “ngọn cờ nguyện cầu”. “Công
đức” tích lũy cho những ai đã chi phí và sản xuất những bánh xe nầy, cho những
ai thoáng nhìn thấy chúng, nghĩ đến Bồ Tát Avalokiteśvara và lòng từ bi, cũng
như công đức của Ngài cũng đến với những sâu bọ chạm đến chúng.
Kính ngưỡng đức Phật
AMITĀBHA
Lòng kính ngưỡng đối với Đức
Phật Amitābha được tìm thấy trong phần lớn các trường Đại thừa (Mahāyāna), và bản chất của sự thực tập
về Tịnh độ tập trung vào việc niệm Phật (Tr.h. nien-fo, Nh.b.nembutsu).
Câu niệm “Nam
mô A-di-đà Phật” (Tr.h. Nam-mo Amit-t’o
fo, Nh.b. Nama Amida Butsu),
dịch từ tiếng Sanskrit “Namo Amitābhāya
Buddhāya”, nghĩa là “Kính ngưỡng Đức Phật Amitābha”. Ở Trung Quốc,
việc niệm Phật theo nhịp hơi thở tự nhiên đều đặn, và có thể được lặp lại nhiều
lần trong ngày, như thể người thực tập không bao giờ biết là chỉ cần niệm “mười
lần” với “sự tập trung không gián đoạn”. Một sản phẩm phụ của việc tập trung ý
nghĩ vào Đức Phật Amitābha và sự tỉnh thức đạt được ở Tịnh độ, là tinh thần
được thanh tịnh hóa khỏi những đam mê lăng xăng. Nembutsu cũng có phẩm chất như thần chú, là mở đường cho
một sinh vật thánh thiện và một người mộ đạo: trong trường hợp nầy, là nguồn
thanh nhã. Hơn nữa, khi việc thực tập hoàn thành một cách hết mình, sẽ trở
thành tự nhiên, và nhận thấy được việc niệm Phật trong không gian tinh thần mà
nơi đó tự ngã đã bị hòa tan trong khỏanh khắc. Cùng với việc thực hành niệm
Phật (nembutsu), xâu chuỗi
của một người, thường được xem là môt vật đáng được tôn thờ; đụng vào chuỗi tức
khắc trong tâm liền niệm Phật và đem lại lợi ích cho những trạng thái tinh
thần.
Ở Trung Quốc, Shan-tao (613-681)
bắt đầu nhấn mạnh việc niệm Phật như là một thực tập “đầu tiên” của Tịnh độ.
Việc “thứ hai” kế đó gồm có: tụng các KinhTịnh độ (Pure Land Sūtras); hình ảnh hóa Đức Phật Amitābha và cõi
Tịnh độ của Ngài; kính ngưỡng các vị Phật khác; hát thánh ca, ca ngợi Đức Phật
Amitābha; để được tái sinh nơi cõi của Ngài, và phát triển lòng đại lượng, từ
bi bằng cách giúp đỡ các người nghèo khó, thiếu thốn, và ăn chay trường.
Ở Nhật Bản, trường Jōdo-shin chỉ
nhấn mạnh về Đức Phật Amitābha, và việc niệm Phật (nembutsu), cũng như bao gồm tất cả các thực tập khác, dù
các thực tập phụ cũng là những cách bày tỏ lòng biết ơn đối với việc được cứu
độ. Mục đích duy nhất của việc niệm Phật (nembutsu)
là để dễ dàng nhận thức niềm tin; một khi mà điều nầy thật sự xảy ra thì được
xem là một kinh nghiệm siêu việt, vô hạn; trong lúc niệm Phật có tính cách
thiêng liêng, người mộ đạo trở nên một với Đức Phật Amitābha.
Sau khi niềm tin xuất hiện, bất
cứ lần niệm Phật nào cũng duy nhất là để bày tỏ sự biết ơn, thường được diễn tả
bằng việc đeo chuỗi nơi cườm tay. Đây cũng là một nhắc nhở cho rằng “con người
tội lỗi” là một bọn đam mê so với Đức Phật Amitābha. Những người mộ đạo bày tỏ
sự ngưỡng mộ vui vẻ đối với Đức Phật Amitābha, và xem Ngài như là bậc cha mẹ,
vì thế Đức Phật Amitābha cũng thường được gọi là Osayama, “Bậc cha mẹ”.
Hình số 10 trình bày một bàn thờ
nhỏ kiểu Nhật, cho thấy Đức Phật Amitābha trong lúc thiền định, với ngón trỏ và
ngón cái đâu vào nhau chỉ định rằng những người mộ đạo cần phải từ bỏ “tự lực”
và nương tựa vào “tha lực” để được cứu rỗi. Hình ảnh Đức Phật Amitābha là một
người thanh thản và dịu dàng, Ngài thu hút các người mộ đạo đến với Ngài bằng
lòng từ bi. Hình dáng rực rỡ của Đức Phật trên đài sen, với hai vị Bồ Tát trợ
giúp ở hai bên: Bồ Tát Avalokiteśvara (dâng tặng ngọc ba điều ước trên hoa sen)
ở bên trái, và Bồ Tát Mahāsthānaprāpta ở bên phải. Hình ảnh nầy tụ chung tìm
cách miêu tả trọng tâm của Cực Lạc (Sukhāvatī),
và để khuyến khích sự nâng cao về mặt kinh nghiệm tâm linh, làm tăng trưởng sâu
sắc về khát vọng được tái sinh ở cõi Tịnh độ. Thật vậy, nền nghệ thuật Đại thừa
(Mahāyāna), phần lớn là được
khơi dậy bởi những kinh nghiệm nhận thấy được và nghệ thuật cũng giúp gây hứng
khởi thêm cho những kinh nghiệm tương đương.
Kính ngưỡng đức Phật
Dược Sư (BHAIṢAJYA-GURU)
Lòng kính ngưỡng Đức Phật Dược
Sư (Bhaiṣjya-guru), “Vị thầy
thuốc” rất quan trọng trong Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Đông phương. Ở các
chùa Trung Hoa, các dãy hành lang thường có tượng ảnh của Đức Phật Bhaiṣajya-guru
và Đức Phật Amitābha ở hai bên cạnh Đức Phật Śakyamuni.
Đức Phật Bhaiṣajya-guru thường
cầm một cái chén được cho rằng có công năng chữa bệnh, làm bằng đá Lapis lazuli, một loại đá quý màu xanh
da trời đậm. Thân thể của Đức Phật cũng giống như ngọc lưu ly, và tràn đầy ánh
sáng. Trong một nghi lễ chữa bệnh của người Trung Hoa, một người phải giữ giới
trong bảy ngày, cúng dường cho tăng sĩ, lễ lạy Đức Phật Bhaiṣajya-guru, tụng
kinh của Đức Phật nầy tất cả là bảy mươi chín lần, làm bảy tấm hình của Đức
Phật và rồi chiêm nghiệm hình ảnh Đức Phật cho đến lúc hình ảnh nầy trở nên
sống động với năng lực tâm linh và năng lượng chữa bệnh của Đức Phật hướng về
đây, kế đó người mộ đạo nhập vào với Đức Phật về mặt tinh thần.
Kính ngưỡng kinh Pháp Hoa (LOTUS SŪTRA)
Trong trường Nichiren ở Nhật
Bản, tựa kinh phong phú với tính cách biểu tượng là “Kinh Liên Hoa của Pháp
chân thật” (Lotus Sūtra of the True
Dharma), Myōhō-renge-kyō,
là sự tập trung thờ kính bộ kinh nầy. Đây được gọi là daimoku, và được xem là biểu trưng của
thực tại tối hậu trong sự trong sạch có thực chất. Nó chứa đựng trong công thức
cầu khẩn có bảy âm vận, Na-mu myō-hō
ren-ge-kyō, được lặp đi lặp lại nhiều lần theo tiếng trống, là một
thực tập quan trọng. Tụng câu nầy với lòng thành tín trong năng lực chân lý của
kinh là giúp thanh lọc tinh thần, bảo vệ và đem lợi ích cho người đọc tụng,
phát triển những sự hoàn hảo của một vị Bồ Tát. Tựa kinh nầy cũng được viết
hoặc khắc trên giấy cuộn hoặc mảnh cây được gọi là gohonzon, hoặc “vật quan trọng được tôn thờ”. Phía dưới ở
giữa là câu thần chú viết bằng chữ Nhật in đậm; ở trên, bên trái và bên phải,
là những danh hiệu của Đức Phật Prabhūtaratna, một vị Phật quá khứ đã hiện ra
trong một dịp nơi Kinh Pháp Hoa, và Đức Phật Śakyamuni; ở các cạnh là những tên
của “bốn vị đại hoàng đế”, những thần linh bảo hộ ở cung trời thấp nhất được
diễn tả trong vũ trụ học Phật giáo cổ xưa; trong những chỗ trống còn lại là tên
của những sinh vật thánh thiện được nhắc đến trong Kinh Pháp Hoa – luôn cả một
vị Bồ Tát mà ngài Nichiren cho rằng mình là hiện thân của vị đó – và vài vị
Kami của Thần Đạo (Shintō).
Những gohonzon được xem là
tượng trưng cho chân lý cuối cùng, như được nói trong Kinh, nhấn mạnh rằng Đức
Phật Śakyamuni là thực tại thâm nhập tất cả và là năng lực có tính cách hoàn
vũ. Như vậy, gohonzon là một
trọng tâm và là vật quan trọng trong việc tôn thờ, chiêm nghiệm, được trình bày
một cách nổi bật trong các chùa Nichiren giữa các hình ảnh của Đức Phật
Śakyamuni và Đức Phật Prabhūtaratna. Môn phái nhỏ được biết đến là trường
Nichiren Shō-shū, nhưng có hình ảnh của ngài Nichiren ở chính giữa. Sự thực tập
thứ hai của trường Nichiren là tụng những phần trong Kinh Pháp Hoa (Lotus Sūtra) về các phương tiện thiện
xảo và tuổi thọ của Đức Phật Śakyamuni.
Cuộc hành hương
Trong Phật giáo, việc hành hương
rất là phổ biến, và được thực hiện bởi nhiều lý do khác nhau: đem các sự kiện
sống động từ cuộc đời của các vị thánh thiện và như vậy củng cố sự khát vọng về
mặt tâm linh; để tạo ra “công đức”; để năng lực làm tốt được tràn ngập từ các
di vật, và “cây Bồ Đề”; nhận được sự bảo hộ từ các thần thánh ở những nơi đó;
hoặc để thực hiện một nguyện ước hành hương sau khi đã nhận được sự giúp đỡ từ
nơi một vị Bồ Tát đặc biệt nào đó. Những nơi hành hương cổ kính là nơi Đức Phật
sanh ra đời, nơi bài pháp đầu tiên được giảng dạy, nơi Đức Phật thành đạo và
nơi Đức Phật nhập Niết Bàn (parinibbāna).
Đức Phật nói những nơi nầy nên được thăm viếng với lòng thành kính, như vậy nếu
có ai đó mà chết trên đường đi hành hương sẽ được tái sinh ở cõi trời (D. II.140-1). Nơi quan trọng nhất là
Bodh-Gayā, nơi mà cây Bồ Đề cổ xưa được trồng lại chính từ nhánh của nó, nơi
Đức Phật thành đạo. Những nhánh cây trĩu xuống được chống đỡ một cách cung
kính, các ngọn cờ nguyện cầu phất phới từ những nhánh cây, và các người hành
hương thu nhặt và gìn giữ những lá rơi từ các nhánh nầy.
Ở Tích Lan, một nơi hành hương
được ưa chuộng nhất là viếng cây Bồ Đề ở thủ đô cũ của Anurādhapura, được trồng từ một nhánh của cây
Bồ Đề Nguyên Thủy. Một nơi khác ở Kandy, “Chùa Răng” (Temple of the Tooth) có chứa đựng một
cái răng của Đức Phật. Những người hành hương có thể viếng đỉnh Siripāda, được
người Anh gọi là “Đỉnh Ađam”, một dãy núi hùng vĩ nhất ở Tích Lan.
Ở đỉnh núi có một dấu lún sâu
trên nền đá dài một thước bảy, được tin rằng đây là dấu chân của Đức Phật để
lại khi Đức Phật dùng thần thông để bay đến đảo nầy thuyết pháp. “Những dấu
chân” như thế nầy hiện hữu ở những nơi khác trong thế giới Phật giáo, và là
những vật có giá trị rất lớn vì có liên quan đến Đức Phật Gotama. Ở núi
Siripāda, lòng kính ngưỡng được bày tỏ nơi “dấu chân” và ở đền Saman, một vị
trời ở địa vị nhập lưu là người cai quản đỉnh núi. Trong tinh thần hoàn vũ xuất
sắc, người Ấn giáo tôn thờ dấu chân của thần Siva, và người Hồi giáo coi đó là
dấu chân của A-đam.
Ở Đông Nam Á, những nơi hành
hương như tháp Shwe-dāgon được tôn thờ vì những di vật ở đó, hoặc nơi mà Đức
Phật đã thăm viếng trong giờ phút cuối của cuộc đời, hoặc trong những kiếp
trước. Nơi hành hương quan trọng của người Tây Tạng là điện Potala, nơi cư ngụ
của các vị Dalai-Lama.
Ở Trung Quốc, những người hành
hương thăm viếng bốn dãy núi thiêng được xem là “nơi cư ngụ” của các “vị Đại Bồ
Tát” ở cõi thế gian. Ở Nhật Bản, Bồ Tát Avalokiteśvara được cho rằng đã hiện ra
dưới những dạng khác nhau ở ba mươi ba địa điểm chung quanh thành phố Kyoto. Mỗi địa điểm có
một đền thờ và một ngôi chùa, nơi mà các người hành hương mộ đạo có thể thực
hành những thực tập kham khổ, như là tắm nước thác lạnh cóng hoặc cầu nguyện cả
đêm. Người hành hương được đóng một con dấu vào trong “quyển sách hành hương”
của mình hoặc một con dấu trên “cuộn giấy hành hương” (pilgrim scroll) được gìn giữ như những
lời nhắc nhở về chuyến hành hương và sự hành hương đã được khơi dậy và bày tỏ
bằng lòng kính ngưỡng mộ đạo.
Lễ hội
Người Phật tử thích thú và biết
thưởng thức các lễ hội như là một dịp để xác nhận lại sự mộ đạo và sự cam kết,
tạo ra “công đức” cho một cá nhân và cộng đồng, củng cố liên hệ và giá trị của
đoàn thể, và các hội hè đình đám, những truyền thống Nam tông, Bắc tông và Đông
phương, mỗi truyền thống đều có những lễ hội quan trọng, và cũng có những khác
biệt dân tộc nơi những lễ hội nầy, cũng như những lễ hội ở trong vùng, thí dụ,
kỷ niệm ngày thành lập chùa.
Vài lễ hội người Phật tử tổ chức
không có liên quan gì đến Phật giáo, chẳng hạn lễ mừng trúng mùa, kỷ niệm các
thần linh dân tộc, hoặc truyền thống của Khổng giáo. Ở Phật giáo Nam tông, phần
đông các lễ hội quan trọng xảy ra vào lúc trăng tròn. Như ở Phật giáo Bắc tông,
chu kỳ của mặt trăng cũng đánh dấu những ngày Bố tát (uposatha’s), hoặc “những ngày lễ kỷ
niệm”, những ngày trăng tròn, trăng non và, ít quan trọng hơn, những ngày trăng
khuyết. Trừ vào những ngày lễ hội quan trọng, các ngày lễ kỷ niệm chỉ có những
người rất mộ đạo mới đến dự, và ở lại tu viện trong vùng một ngày đêm. Các vị
tăng sĩ được cúng dường thực phẩm một cách long trọng, cam kết tuân theo giới
cấm đã được thọ nhận, các tăng sĩ tụng kinh cho giới cư sĩ, và đôi lúc nói một
bài pháp ngắn: những đặc điểm nầy cũng có ở tất cả lễ hội của Phật giáo Nam tông. Thời
gian còn lại là để bày tỏ lòng kính ngưỡng, đọc kinh sách, tiếp chuyện với các
tăng sĩ, và có thể là thực tập một chút thiền định.
Trong những vùng đất Phật giáo
Nam tông, theo truyền thống lễ hội hàng năm bắt đầu vào Năm mới, được tổ chức
nhiều lần khác nhau, đôi khi lên đến bốn ngày, trong giữa tháng tư. Vào ngày
đầu, mọi nhà đều được dọn dẹp, lau chùi bụi của năm cũ. Nước, đôi lúc được làm
cho thơm, được đổ lên các tượng Phật theo nghi lễ và rửa tay các vị tăng sĩ và
những thân nhân lớn tuổi, như là dấu hiệu của sự kính trọng. Ở Đông Nam Á,
thường được tiếp theo bằng một cuộc vui tát nước khi các cư sĩ tạt nước vào mọi
người. Ở Thái Lan, Cam Bốt, Lào, vào ngày thứ hai, những tháp (stūpas) bằng cát được tạo dựng ở những
phần đất quanh chùa hoặc ven bờ sông. Khi Năm Mới bắt đầu vào ngày kế, cát được
trải ra để làm thành một nền đất, hoặc bị cuốn trôi theo dòng sông. Sự phân tán
của cát tượng trưng cho “việc rửa sạch” những việc xấu của một người trong năm
qua. Suy ngẫm về những việc làm không tốt, người ta liền cam kết lần nữa để
tuân theo những giá trị của Phật giáo. Vào năm mới cũng là lúc để giúp đỡ các
chúng sinh bằng cách thả chim bị nhốt lồng và cứu cá khỏi những sông hồ đã cạn
nước. Lễ hội cùng kèm theo những cuộc đua thuyền, đấu diều, nhạc, kịch và vũ
điệu dân tộc.
Vào lúc trăng tròn theo âm lịch,
vào ngày rằm tháng năm (Vesākha Pūjā)
là ngày lễ mừng Đức Phật đản sanh, thành đạo và nhập Niết Bàn (parinibbāna). Ở Tích Lan, đây là lễ hội
quan trọng nhất, khi mọi nhà được trang hoàng bằng vòng hoa và đèn giấy, các
con đường và các sân chùa được thắp đèn sáng. Mọi người thả bộ giữa những diễn
viên kịch câm và các sảnh đường trưng bày những bức tranh về cuộc đời Đức Phật,
và thực phẩm được phân phát cho những quầy xin ăn bên đường.
Ở Miến Điện, các cây Bồ đề được
tưới bằng nước thơm, trong khi ở Thái Lan, Cam Bốt và Lào, các tăng sĩ dẫn giới
cư sĩ đi nhiễu vòng ba lần chung quanh chùa, Tháp (Stūpas) hoặc tượng ảnh của Đức Phật. Tiếp theo đó là một
bài pháp về đời sống của Đức Phật, đôi lúc kéo dài cả đêm.
Ở Tích Lan, ngày trăng tròn kế
tiếp đánh dấu lễ hội Poson,
lễ mừng ngài Mahinda truyền bá Phật giáo đến đảo. Những bức hình của ngài được
diễn hành qua các đường phố theo tiếng trống, và các cuộc hành hương đi đến tận
thành phố Anurādhapura và gần đến tỉnh Minhintala, nơi mà ngài Mahinda đã gặp
gỡ và cải đạo cho đức vua.
Ngày trăng tròn kế tiếp, đánh
dấu lễ Āsātha Pūjā, lễ mừng
Đức Phật đi tu và bài pháp đầu tiên, và cũng đánh dấu buổi đầu ba tháng của Vassa (“Mùa mưa”). Trong thời gian nầy,
trừ những lúc vắng mặt ngắn hạn, các tăng sĩ ở lại trong tu viện của họ, chú
tâm học tập và thiền định, và vô số các thanh niên ở Đông Nam Á được tạm thời
thọ giới. Giới cư sĩ cũng cam kết sâu sắc thêm với tôn giáo mình đã chọn. Họ
thường tránh các tiệc tùng, nhất là các tiệc cưới, và nhiều người thực tập ngày
Bố tát ở các tu viện trong vùng hơn thường lệ. Phần lớn sự thọ giới xảy ra
trong thời gian chuẩn bị ngày lễ Āsātha
Pūjā với hy vọng để góp phần “công đức” đúng lúc vào đầu mùa mưa.
Vào lúc trăng tròn đánh dấu ngày
cuối của mùa mưa (Vassa), các
tăng sĩ cử hành lễ Pavāraṇā.
Khi họ tụng kinh và thiền định, sáp từ cây nến đang cháy chảy vào trong tô
nước, đây được xem là một vài “công đức” của các tăng sĩ được tái tạo trong mùa
Vassa, tràn vào trong nước
làm trở thành nước thánh. Sau
đó, nước nầy được rải lên giới cư sĩ như là ban phước lành.
Ở Đông Nam Á, nhất là ở Miến
Điện, ngày kế tiếp là ngày Tāvatiṃsa,
ngày lễ hội mừng Đức Phật sau mùa Vassa
đã đến cung trời Tāvatiṃsa để
thuyết pháp cho mẹ của Đức Phật, và rồi trở về trái đất. Như “ánh sáng” thế
gian được tiếp cận một lần nữa, đây là một lễ hội ánh sáng, mọi nhà, tu viện và
tháp đều thắp sáng đèn, và những ngọn nến có thể được thắp sáng trong những
chiếc tàu lá nhỏ thả trên sông. Một loại thực phẩm đặc biệt được cúng dường cho
đoàn tăng sĩ diễn hành, dẫn đầu bằng một vị cư sĩ nam cầm hình ảnh Đức Phật và
chén khất thực, tượng trưng cho sự trở lại của Đức Phật.
Tháng kế tiếp là mùa ăn mừng lễ Kaṭhina, vào lúc nầy các quần áo mới,
dụng cụ cần thiết và tiền được dâng tặng cho các tu viện. Hành động nầy chú
trọng vào việc dâng tặng những mảnh vải mà các tăng sĩ sẽ nhuộm và làm thành
một loại áo choàng đặc biệt, cũng trong ngày nầy, kỷ niệm những chiếc áo được
may từ những vải vụn trong thời kỳ Phật giáo ban sơ. Những ngày lễ nầy rất
thuận lợi, thường được cử hành ở những tu viện (vihāras) trong vùng, những lễ nầy bổ sung cho những lễ
hàng năm quan trọng hơn nơi Phật giáo Nam tông.
Ngoài Nepal,
có bảy lễ hội trong Phật giáo Bắc tông trùng hợp với những lễ của Phật giáo Nam tông: Lễ
mừng Đức Phật thành đạo và nhập Niết Bàn (ngày Đức Phật đản sanh được cử hành
trước đó tám ngày), bài pháp đầu tiên và sự trở lại từ thượng giới (ở đây là
cõi trời Tuṣita). Những
trường phái khác nhau cũng có những lễ hội liên quan đến người sáng lập ra
chúng, với cái chết của Tsong-kha-pa (vào tháng mười một) là một trong những
ngày lễ quan trọng; các tu viện cũng có lễ hội liên quan đến vị thánh thần hộ
mệnh đặc biệt của họ.
Vào tháng hai, lễ mừng Năm mới
của Tây Tạng rất quan trọng trong các trụ sở lễ hội và có đặc tính riêng. Vào
hai tuần trước đó, các tăng sĩ mặc áo màu sặc sỡ và mang mặt nạ, cử hành những
vũ điệu rất oai vệ có tính cách nghi lễ, trước những khán thính giả đông đảo.
Kèm theo là tiếng tù và, trống, kèn, và tiếng loảng xoảng của chũm choẹ, các
tăng sĩ làm ra một chuỗi cử động long trọng, uy nghi, kéo dài cả mấy tiếng đồng
hỗ. Những vũ điệu nầy được xem là để xua đi những năng lực ma quái, trong khi
những lễ nghi khác là để giúp cho chúng sinh tiến đến sự tỉnh thức.
Bắt đầu từ ngày bốn đến ngày hai
mươi lăm của tháng đầu tiên, các tăng sĩ thực hành những nghi lễ của sMon Lam (ph.a. Monlam), “Lời tuyên thệ
lớn”, được cử hành trong vòng năm ngày, ăn mừng việc Đức Phật “thi triển thần
thông” ở Śrāvasti (Pali Sāvatthī; xem
tr. 26). Như là một sự kiện mà các thầy đối nghịch bực dọc, đây trở nên một dấu
hiệu thích ứng cho việc khắc phục các sức mạnh xấu ác, và là sự chiến thắng của
Phật giáo đối với đạo Bon. Vào ngày thứ mười ba, các vũ điệu miêu tả các thánh
thần bảo hộ Phật giáo Tây Tạng trong việc đấu tranh chống ma quỷ và sự si mê về
tâm linh. Những vị thánh thần nầy được tựng trưng bằng một hình người nộm nhỏ
và bị giết theo nghi lễ, tượng trưng cho sự chiến thắng ma quỷ và một năm mới
an lành, giàu sang. Để nâng cao độ năng lượng của con người cho năm mới, các
cuộc đua ngựa và các cuộc thi bắn cung được cử hành trong thời gian nầy.
Trong những đất Phật giáo Đông
phương, những lễ hội trong năm có rất ít yếu tố Phật giáo, nó mang nhiều yếu tố
Khổng giáo, Thần Đạo, và những truyền thống dân gian. Ở Cộng Sản Trung Quốc,
các lễ hội thường bị thế tục hóa và chính trị hóa, cho dù những ngày lễ cũng
tiếp tục trước đó ở Đài Loan và nơi những người Trung Hoa di cư. Giữa những
người Trung Hoa, việc cử hành lễ hội dựa theo âm lịch, ngày Đức Phật đản sanh
được cử hành vào tháng năm, như ở Đại Hàn, trong khi ở Nhật Bản, thì được cử
hành vào ngày tám tháng tư. Lễ quan trọng là ghi nhớ câu chuyện Đức Phật
Śakyamuni lúc mới vừa sanh ra đã đứng được và được tắm bằng nước do các vị trời
dâng tặng: những hình tượng nhỏ về một đứa bé đang đứng được đặt trong các chén
và được tưới nước thơm hoặc nước trà. Cho những người Phật tử Trung Hoa, lễ hội
cũng là thời gian phổ biến việc cứu thoát các chúng sinh còn sống dưới nước hay
trên trời. Ở Đại Hàn, đây là thời gian để đốt các đèn lồng ở chùa. Ở Nhật Bản,
lễ hội được biết đến như là Hana Matsuri,
“Hội Hoa Đăng”, và còn chất chứa những yếu tố của các lễ hội trước thời Phật
giáo, gồm có việc thu nhặt các hoa ở núi rừng hoang dã như là đem các thần
thánh từ rừng về nhà để bảo hộ đồng lúa. Sự liên quan có tính cách Phật giáo là
Đức Phật Śakyamuni được sanh ra ở trong động đầy những hoa, và vì thế tượng ảnh
Đức Phật lúc còn là em bé được đặt trong các bệ thờ trang hoàng đầy hoa.
Những lễ hội quan trọng khác của
người Trung Hoa là những ngày “sanh”, ngày “thành đạo” và ngày “tử” của Bồ Tát
Kuan-Yin, và đặc biệt là lễ Vu Lan (Ullambana),
ngày mà những người không phải Phật tử cũng làm lễ. Ngày “Lễ hội của ma, và quỷ
đói”, vào tháng tám/ tháng chín, lúc mà các thân quyến, ông bà, cha mẹ đã chết,
bị tái sinh làm ma đói, lúc nầy là lúc mà họ được đi vào cõi người, là một
nguồn năng lượng nguy hiểm. Vào lúc trăng tròn, chấm dứt ba tháng “hè an cư”,
các tăng sĩ hồi hướng “công đức”, đem thực phẩm ra và tụng kinh cho những ngạ
quỷ để giúp họ có thể được tái sinh những chỗ tốt hơn. Giới cư sĩ bảo trợ các
nghi lễ và tham gia bằng cách đốt những thuyền bằng giấy “đưa qua sông” các ngạ
quỷ đến một thế giới khác tốt hơn, như thế là bày tỏ lòng hiếu thảo đối với các
bậc tổ tiên. Một câu chuyện được ưa chuộng được kể vào lúc nầy là câu chuyện về
Ngài Mu-lien (Pali Moggallāna),
một vị đại đệ tử A-la-hán của Đức Phật, đã khám phá ra rằng mẹ của mình bị tái
sinh làm ma đói hoặc bị ở địa ngục (có hai cách thuật lại khác nhau). Theo lời
khuyên của Đức Phật, Ngài Mu-lien giúp mẹ được tái sinh ở cõi tốt hơn bằng cách
hồi hướng “công đức” cho bà. Ở Nhật Bản, ngày lễ Vu Lan (Ullambana) trở thành lễ O-bon, “Tiệc
của người quá cố”, được cử hành từ ngày mười ba đến ngày mười lăm tháng bảy. Các
ngôi mộ được dọn dẹp, lau chùi sạch sẽ, và một bàn thờ được đặt ở trong hoặc
gần nhà để dâng cúng hoa và dược thảo tươi. Một ngọn lửa được đốt lên và các
cây nến được thắp sáng để tiếp đãi các linh hồn tổ tiên và chia xẻ các lễ vật,
một tu sĩ Phật giáo được mời đến để tụng một bài kinh nơi mỗi nhà gần xứ đạo
của mình.