Trong
các loại thiền và pháp quán tứ niệm xứ, pháp hơi thở là ưu việt nhất.
Đó là loại thiền đốn ngộ, quán thẳng vào thân tâm pháp một cách sáng
suốt và không có kẻ hở để cho mọi vọng tưởng xen vào. Hơi thở là đầu
mối duy trì của sự sống và là nhân duyên sanh diệt của chúng sinh. Cho
nên quán hơi thở đúng cách là không những tạo cho thân tâm được an tịnh
mà là còn giải thoát khỏi đám mây mù của tâm thức vốn mang nhiều hệ lụy
sanh tử luân hồi từ nghiệp thức.
I. Tàng Thức: Nơi Chứa Nghiệp Thức
Ý nghĩa của Nghiệp-
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ
vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứ và
hiện tại chi phối. Hễ nghiệp lành thì được vui, nghiệp ác thì chịu khổ.
Vậy nghiệp là gì? Nghiệp theo chữ Phạn là ‘karma’ có nghĩa là hành động
và phản ứng, quá trình liên tục của nhân và quả. Luân lý hay hành động
tốt xấu (tuy nhiên, từ ‘nghiệp’ luôn được hiểu theo nghĩa tật xấu của
tâm hay là kết quả của hành động sai lầm trong quá khứ) xảy ra trong
lúc sống, gây nên những quả báo tương ứng trong tương lai. Cuộc sống
hiện tại của chúng ta là kết quả tạo nên bởi hành động và tư tưởng của
chúng ta trong tiền kiếp. Đời sống và hoàn cảnh hiện tại của chúng ta
là sản phẩm của ý nghĩ và hành động của chúng ta trong quá khứ, và cũng
thế các hành vi của chúng ta đời nay, sẽ hình thành cách hiện hữu của
chúng ta trong tương lai. Nghiệp có thể được gây tạo bởi thân, khẩu,
hay ý; nghiệp có thể thiện, bất thiện, hay trung tính (không thiện
không ác). Tất cả mọi loại nghiệp đều được chất chứa bởi A Lại Da và Mạt Na thức (hay gọi là Tàng Thức).
Chúng sanh đã lên xuống tử sanh trong vô lượng kiếp nên nghiệp cũng vô
biên vô lượng. Dù là loại nghiệp gì, không sớm thì muộn, đều sẽ có quả
báo đi theo. Không một ai trên đời nầy có thể trốn chạy được quả báo:
Như trên đã nói, nghiệp là sản phẩm của thân, khẩu, ý, như hạt giống
được gieo trồng, còn quả báo là kết quả của nghiệp, như cây trái. Khi
thân làm việc tốt, khẩu nói lời hay, ý nghĩ chuyện đẹp, thì nghiệp là
hạt giống thiện. Ngược lại thì nghiệp là hạt giống ác. Chính vì vậy mà
Đức Phật dạy: “Muốn sống một đời cao đẹp, các con phải từng ngày từng
giờ cố gắng kiểm soát những hoạt động nơi thân khẩu ý chớ đừng để cho
những hoạt động nầy làm hại cả ta lẫn người.”
Nghiệp và quả báo - Nghiệp
và quả báo tương ứng không sai chạy. Giống lành sanh cây tốt quả ngon,
trong khi giống xấu thì cây xấu quả tệ là chuyện tất nhiên. Như vậy,
trừ khi nào chúng ta hiểu rõ ràng và hành trì tinh chuyên theo luật
nhân quả hay nghiệp báo, chúng ta không thể nào kiểm soát hay kinh qua
một cuộc sống như chúng ta ao ước đâu. Theo Phật Pháp thì không có
thiên thần quỷ vật nào có thể áp đặt sức mạnh lên chúng ta, mà chúng ta
có hoàn toàn tự do xây dựng cuộc sống theo cách mình muốn. Nếu chúng ta
tích tụ thiện nghiệp, thì quả báo phải là hạnh phúc sướng vui, chứ
không có ma quỷ nào có thể làm hại được chúng ta. Ngược lại, nếu chúng
ta gây tạo ác nghiệp, dù có lạy lục van xin thì hậu quả vẫn phải là
đắng cay đau khổ, không có trời nào có thể cứu lấy chúng ta.
Nghiệp đi vào tiềm thức như thế nào-:
Khi chúng ta hành động, dù thiện hay ác, thì chính chúng ta chứng kiến
rõ ràng những hành động ấy. Hình ảnh của những hành động nầy sẽ tự động
in vào tiềm thức của chúng ta. Hạt giống của hành động hay nghiệp đã
được gieo trồng ở đấy. Những hạt giống nầy đợi đến khi có đủ duyên hay
điều kiện là nẩy mầm sanh cây trổ quả. Cũng như vậy, khi người nhận
lãnh lấy hành động của ta làm, thì hạt giống của yêu thương hay thù hận
cũng sẽ được gieo trồng trong tiềm thức của họ, khi có đủ duyên hay
điều kiện là hạt giống ấy nẩy mầm sanh cây và trổ quả tương ứng.(TĐVATP)
II. Giải Thoát Nghiệp Thức.
Làm thế nào để chúng ta triệt tiêu nghiệp? - Đức
Phật dạy nếu ai đó đem cho ta vật gì mà ta không lấy thì dĩ nhiên người
đó phải mang về, có nghĩa là túi chúng ta không chứa đựng vật gì hết.
Tương tự như vậy, nếu chúng ta hiểu rằng nghiệp là những gì chúng ta
làm, phải cất chứa trong tiềm thức cho chúng ta mang qua kiếp khác, thì
chúng ta từ chối không cất chứa nghiệp nữa. Khi túi tiềm thức trống
rỗng không có gì, thì không có gì cho chúng ta mang vác. Như vậy làm gì
có quả báo, làm gì có khổ đau phiền não. Như vậy thì cuộc sống cuộc tu
của chúng ta là gì nếu không là đoạn tận luân hồi sanh tử và mục tiêu
giải thoát rốt ráo được thành tựu. (TĐVATP)
Những dòng tâm thức nhiều đời chồng chất trong Vô
thức hay Tàng thức (A-lai-Da thức, Mạt- Na thức). Hoạt động vô thức gồm
có: hoạt động của than gan, tim, phổi và hơi thở nhất là tim và hơi thở
rõ rệt hơn hết. Thiền hơi thở là rữa sạch dòng tâm thức tối ưu.
III. Quán Hơi Thở: Môt Pháp Thiền Đốn Ngộ.
Thật
vậy, hơi thở là sợi dây nối liền giữa Vô Thức và Ý Thức. Nó có thể từ
vô thức lôi ra những dòng tâm thức ứ động nhiều đời nhiều kiếp làm cho
tâm trở nên trong sáng. Quán hơi thở là một pháp thiền đốn ngộ từ
nguyên thủy vì nó rốt ráo không dính thêm mọi tư duy và quán tưởng như
các loại thiền khác. Trong Đại Kinh Sáu Xứ Phật dạy, “Thấy Biết như
Chơn lục căn lục trần, lục thức v.v...”. Đối tượng nhận thức thường
dùng quán từ vô thức với những vọng tưởng tự nhiên đột khởi hoặc những
đối tượng diễn tả tâm trạng của con người như lời Phật dạy trong Tứ
Niệm Xứ là một cách tốt. Tất cả đối tượng đó nói lên những điều có thể
chấp chứa trong vô thức của con người có thể xả ra những ô nhiễm,
nghiệp thức từ trong thân ngũ uẩn; nhưng chỉ có hơi thở là tốt hơn hết,
vì nó thường trực tự nhiên trôi chảy từ vô thức và là trinh nguyên của
hoạt động vô thức, chỉ dùng tự lực (đối tượng tự nhiện bên trong),
không một chút dính dấp đến mọi quán tưởng hay tư duy, tha lực hay
những điều kiện bên ngoài...
Vậy, sau khi chuẩn bị mọi thủ tục ngồi thiền, bắt đầu tu tập quán hơi thở với sự thực tập như sau:
Khi hít hơi vào, đồng thời ý thức hay nhận thức luồng hơi thở vào, thầm biết thở vô (tĩnh giác)
Khi thở hơi ra, đồng thời ý thức hay nhận thức luồng hơi thở ra, thầm biết thở ra. (dài hơn hơi thở vô vì cần xả ra hết hơi độc)
Tiếp tục niệm biết từng hơi thở và cố gắng có thể thực hành niệm biết trong tứ oai nghi.
Hơi thở ra, vào là đối tượng vô thức, nhận thức quán hơi thở là ý
thức hay tâm thức. Vậy khi chúng ta quán hơi thở như trên là ta nhận
thức (thuộc tâm thức), nó rồi ta tri nhận (tâm trí) thức đó, với vô
thời gian ta sẽ có giác trí tuệ.Chúng ta ngồi với hai mắt khép một chút
thôi, và chú tâm vào hơi thở. Chúng ta thở tự nhiên, tốt nhất là thở
qua lỗ mũi, đừng tìm cách kiểm soát hơi thở, và chúng ta chú tâm vào
cảm thọ về hơi thở khi hơi thở vào và ra hai lỗ mũi. Cảm thọ này là đối
tượng thiền tập của chúng ta. Chúng ta nên cố gắng tập trung vào nó, và
gác bỏ mọi thứ khác.
“Thoạt
tiên, tâm chúng ta sẽ rất bận rộn, thậm chí có thể cảm thấy rằng thiền
tập đang làm cho tâm chúng ta bận rộn hơn, nhưng trên thực tế chúng ta
chỉ đang ý thức hơn về mức độ bận rộn biến chuyển mà tâm chúng ta đang
thực sự hiện hành. Sẽ có một sức lôi cuốn lớn để dẫn [chúng ta] theo
các niệm khác nhau khi nó hiện khởi, nhưng chúng ta nên chống lại [lôi
cuốn đó] và cứ tập trung nhất tâm vào cảm thọ về hơi thở. Nếu chúng ta
thấy là tâm chúng ta lang thang và chạy theo các niệm, chúng ta nên tức
khắc trở về với hơi thở. Chúng ta hãy làm thế liên tục khi cần thiết,
cho tới khi tâm an trú vào hơi thở.
Nếu
chúng ta kiên nhẫn tập cách này, dần dần các niệm lung tung sẽ lắng
xuống và chúng ta sẽ kinh nghiệm một cảm thọ về sự an tĩnh trong tâm và
sự thư giãn. Tâm chúng ta sẽ cảm thấy sáng rõ và như rộng lớn bát ngát,
và chúng ta sẽ cảm thấy như được tươi mới. Khi biển dậy sóng, cặn sẽ
cuốn lên và nước sẽ đục ngầu, nhưng khi gió êm thì bùn dần dần lắng
xuống và nước nhìn rõ trong suốt.
Tương
tự, khi dòng niệm không ngừng tuôn của chúng ta được an tĩnh nhờ tập
trung vào hơi thở, tâm chúng ta sẽ trở thành trong suốt và sáng tỏ dị
thường. Chúng ta nên ở trong trạng thái an tĩnh tâm thức này một thời
gian.
Mặc
dù thiền tập hơi thở chỉ là bước đầu thiền tập, nó có thể rất là mãnh
liệt. Chúng ta có thể thấy từ pháp tu này là chúng ta có thể đạt được
an tĩnh nội tâm và sự an lạc chỉ bằng cách kiểm soát tâm, mà không dựa
vào bất kỳ điều kiện bên ngoài nào. Khi dòng niệm lắng xuống, và tâm
chúng ta tịch tĩnh, một niềm hạnh phúc sâu thẳm và sự an lạc tự nhiên
khởi lên. Cảm thọ về sự an lạc và sự sung mãn giúp chúng ta đối phó với
sự bận rộn và khó khăn của đời sống thường nhật. Quá nhiều căng thẳng
thường đến từ tâm chúng ta, và nhiều vấn đề chúng ta trải qua, kể cả
bệnh hoạn, gây ra hay bị làm trầm trọng thêm bởi sự căng thẳng này. Chỉ
bằng cách thiền tập hơi thở trong 10 hay 15 phút mỗi ngày, chúng ta sẽ
có thể giảm sự căng thẳng. Chúng ta sẽ kinh nghiệm một cảm thọ tịch
tĩnh, bao la bát ngát trong tâm, và nhiều vấn đề thường gặp của chúng
ta sẽ biến mất. Các hoàn cảnh gian nan sẽ dễ dàng hơn để đối phó, chúng
ta sẽ tự nhiên cảm thấy nồng ấm và cởi mở với người khác, và quan hệ
của chúng ta với người khác sẽ dần dần thăng tiến.”(Cửa Thiền Tây Tạng,
Việt dịch Nguyên Giác)
Cứu cánh Thiền Đốn Ngộ dạt
đến Giác Ngộ Giải Thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử vì không còn nghiệp
thức đeo đuổi, không còn nhân duyên chằng chịt vượt khỏi thời không.
Nếu huân tập thâm sâu dòng tâm thức càng trở nên trong sạch. Ví như cái
hồ nước vẩn đục, ta xả ra mà không có đổ vô thêm nước vẩn đục (nghiệp
thức) nữa, thì nước vẩn đục (dòng Tâm Thức) dần dần sẽ hết tức là dòng
tâm thức không còn tính vẩn đục. Lúc sống được tự tại thì lúc chết làm
sao bị dòng tâm thức (nghiệp) quấy nhiểu. Khi chết không còn nghiệp
thức vấn vương, thì thể trí cũng tự tại vậy. Trong tứ oai nghi, lúc nào
cũng có thể tĩnh giác quán hơi thở. (Thiền: Một Loại Tri Thức của Tâm Trí. Phổ Nguyệt, 2006)
IV. Tham Khảo.
1. KINH AN-NA-BAN-NA NIỆM Hán dịch: Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-Ðà-La Việt dịch: Thích Ðức Thắng - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ
2. VỀ PHÁP QUÁN NIỆM HƠI THỞ Pháp sư Tăng-già-bạt-đà-la (Sanghabhadra - Chúng-Hiền) Tỳ kheo Tâm Hạnh dịch Việt. Trích:
“Chú giải Luật Thiện Kiến”, quyển 10-11, Pháp sư Tăng-già-bạt-đà-la
dịch sang Hoa văn năm 488 TL, Tỳ kheo Tâm Hạnh dịch sang Việt văn năm
2000 TL.
V. Kết Luận.
Hơi
thở là một gạch nối liền từ tàng thức (A-Lai-Da thức) tới ý thức, là
đối tượng hoạt động của vô thức, tự nhiên thường trực trong hiện tại,
không thuộc điều kiện bên ngoài. Chúng ta có thể nhận thức được một
cách cụ thể. Từ nhận thức (thuộc tâm thức) đó chúng ta có thể dùng ý
trí tác năng (thuộc Trí năng hay tâm trí) để tri nhận nhận thức ấy. Đó
là lịch trình tu tập quán hơì thở như quán biết, niệm biết như chơn hơi
thở. Chơn hơi thở là chính là hơi thở nguyên vẹn không thêm không bớt.
Tất cả nghiệp thức từ hơi thở được xả ra dần là một pháp thiền đốn ngộ
rốt ráo nhất, thanh lọc dòng tâm thức hữu hiệu nhất để chứng tri chánh
trí mà được minh tâm và giải thoát.
Tham khảo:\
Cửa Thiền Tây Tạng. Nguyên Giác biên Dịch, trích trong website Liên Hoa: http://www.lien-hoa.net
KINH AN-NA-BAN-NA NIỆM và Về pháp quán niệm hơi thở đăng trong website Thư Viện Hoa Sen: http://www.thuvienhoasen.org/kinhtapaham29.htm
TĐVATP: Tự điển Việt Anh. Thiện Phúc trích trong trang nhà Diệu Pháp: http://www.dieuphap.com.
THERAVĀDA - PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY - CĂN BẢN PHÁP HÀNH THIỀN.Nguyên tác: The Basic Method of Meditation, Tác giả: Thiền sư Ajahn Brahmavamso, Dịch giả: Thiện Nhựt & Bình
Anson, đăng trong website BuddhaSasana http://www.budsas.org
Thiền: Một Loại Tri Thức của Tâm Trí. Phổ Nguyệt, 2006 đăng trong Tạng Thư Phật Học: http://www.tangthuphathoc.com/mucluctongquat.htm
Phổ Nguyệt