Sách
Đông Phương huyền bí
Nguyễn Hữu Kiệt dịch
16/07/2011 16:02 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Tôi đã có dịp nhận định rằng các nhà tu sĩ ở Ấn Độ gồm nhiều thành phần vô cùng phức tạp. Trong số đó, phần nhiều là những người tốt và vô hại, mặc dầu họ có vẻ như rất nghèo nàn về phương diện quyền năng hay minh triết. Có một số gồm cả những người thất bại trên đường đời hoặc là những người lười biếng không muốn làm việc cực nhọc thể xác. Một trong những người ấy đã có lần đến gần tôi để xin tiền.

Đầu tóc rối nùi, thân thể bôi tro và bộ mặt bất hảo làm cho anh ta có một hình dáng bề ngoài ghê tởm. Tôi bèn cưỡng lại sự đường đột của anh ta để thử xem kết quả ra sao. Sự chống cự của tôi càng làm cho anh ta đeo lấy tôi như đỉa đói. Sau cùng, anh ta thử dùng một chiến thuật mới bằng cách gạ bán cho tôi xâu chuỗi bồ đề của anh ta. Đó là một vật trông rất dơ bẩn, nhưng có lẽ anh ta rất quí trọng, vì anh ta đòi bán với một giá rất cao. Tự nhiên là tôi từ chối và quay đi chỗ khác.

Một số ít những tu sĩ khác gồm những người tu khổ hạnh một cách vô lý và thường phô trương sự tu tập của mình trước công chúng. Có người đưa một cánh tay lên trời cho đến khi móng tay mọc dài ra đến năm tấc và xoắn tròn! Có người lại đứng một chân suốt nhiều năm ở một chỗ. Tôi không thể hiểu nổi là họ sẽ đạt được gì với những sự phô trương kém mỹ thuật đó, ngoài một vài đồng xu mà người ta ném vào cái bát ăn xin của họ.

Một số người khác dường như sử dụng tà thuật một cách công khai. Họ là những kiểu thầy phù thủy hạ cấp của Ấn Độ và hoạt động phần nhiều nơi các làng mạc thôn quê. Với một số tiền thù lao nhỏ, họ có thể giúp thân chủ làm hại kẻ thù, hoặc quyến rũ, dụ dỗ được một người đàn bà, hoặc giúp thân chủ thực hiện tham vọng một cách dễ dàng bằng cách hạ gục kẻ địch thủ với một vài ám tật hoặc một chứng bịnh kỳ lạ. Người ta vẫn thường nghe kể nhiều câu chuyện ám muội và lạ lùng về những tay phù thủy bàng môn tả đạo này. Đôi khi họ cũng tự xưng rằng họ là những người yogi, hay thuật sĩ (fakir).

Còn lại một số rất ít gồm các tu sĩ có học thức, đôi khi là những người có trình độ văn hóa khá cao. Những người này thường đã bỏ ra nhiều năm tìm tòi học hỏi và khổ công tu luyện. Họ thực sự từ bỏ cuộc đời thế gian để bước vào con đường đi tìm chân lý. Họ có một niềm tin chắc chắn rằng đạt tới chân lý chính là đạt được hạnh phúc chân thật. Người ta có thể hoài nghi về tính chất hợp lý của vấn đề này, xem đó như là sự từ bỏ cuộc đời trần thế để chạy theo một viễn ảnh mơ hồ không có gì thiết thực, nhưng cái chí nguyện dốc lòng tầm đạo của những người này là hết sức thành thật, không ai có thể nghi ngờ hay chất vấn. Việc họ có thể đạt được chân lý và giải thoát hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như họ có đi đúng đường hay không và có gặp được bậc minh sư dẫn dắt hay không.

Một người Âu thường không có thời gian dành cho một cuộc tìm kiếm như thế. Người ta có thể viện ra một lý do rất thuyết phục để chấp nhận thái độ lãnh đạm chung của mọi người phương Tây về vấn đề tâm linh. Họ lập luận rằng, nếu điều đó là lầm lạc thì tất cả mọi cư dân trên lục địa Tây bán cầu đều lầm lạc cả chứ không riêng chỉ một người!

Trong thế hệ vật chất hiện tại, người ta xem việc đi tìm chân lý như một điều viển vông vô ích, nhưng họ không ngờ rằng họ đang phung phí rất nhiều năng lực để theo đuổi những điều mà xét cho cùng cũng chẳng mang lại ích lợi gì cả, vì tất cả những mục tiêu của họ đều chỉ là những sự vật phù du giả tạm.

Thuở xưa, từng có một người Tây phương đã đến viếng xứ Ấn Độ với một sứ mạng không giống như tôi, nhưng những nhân vật mà ông ta gặp ở xứ ấy đã làm cho ông ta bị đánh lạc hướng, đến nỗi ông ta suýt nữa đã quên hẳn mục đích đầu tiên của cuộc hành trình. Đó là Đại đế Alexander của Macedona vào thế kỷ 4 trước Công nguyên, người đã đem quân chinh phục các xứ phương Đông để nới rộng giang sơn bờ cõi. Vị đại đế này đã gần như trở thành một triết gia khi rời khỏi xứ này.

Tôi thường tự hỏi mình về những ý nghĩ của vua Alexander khi ngồi trên chiến xa vượt qua các vùng núi non tuyết phủ và những bãi sa mạc hoang vu trên đường khải hoàn trở về xứ sở. Trong thời gian ở xứ Ấn Độ, vua Alexander đã từng bị chinh phục bởi các nhà hiền giả và đạo sĩ yogi mà ngài gặp ở dọc đường. Ngài đã từng chất vấn và thảo luận sôi nổi với họ nhiều lần, suốt nhiều ngày liên tiếp về các vấn đề triết lý. Nếu ngài có dịp lưu lại và sống chung với họ thêm vài năm nữa, có lẽ ngài đã đưa thế giới Tây phương vào một con đường khác hẳn.

Trong số những nhà tu sĩ ở Ấn Độ ngày nay, vẫn còn có một vài người cố gắng hoạt động để giữ gìn cho lý tưởng đạo đức và ngọn lửa tâm linh của xứ sở họ vẫn luôn luôn bừng cháy. Một số những nhà tu giả danh có thể chỉ là những kẻ bịp bợm. Đó là hậu quả không sao tránh khỏi của một thời đại đã suy tàn. Nhưng ta đừng nên vì thế mà không biết đến một thiểu số còn lại là những bậc chân tu gương mẫu.

Như trên đã nói, giai cấp tu sĩ gồm nhiều thành phần vô cùng phức tạp, đến nỗi người ta không thể đưa ra một cách đánh giá chung, dầu là khen hay chê, cho tất cả bọn họ. Tôi đã hiểu thái độ cực đoan của một số sinh viên ở các đô thị khi nói rằng việc tận diệt thành phần “tu sĩ ăn bám” sẽ là một ân huệ tốt lành cho xứ Ấn Độ. Tôi cũng thông cảm không kém với những người đứng tuổi và ôn hòa hơn khi họ nói với tôi rằng ngày nào mà xã hội Ấn không còn nữa những bậc hiền triết và đạo sĩ chân tu, thì đó phải là ngày Ấn Độ bắt đầu suy tàn.

Vấn đề này có một tầm quan trọng riêng đối với xứ Ấn Độ, bởi vì nền kinh tế khó khăn ở đây buộc người ta phải xét lại giá trị tồn tại của mỗi thành phần trong xã hội. Người tu sĩ dường như không thực hiện được vai trò hữu ích nào cho xứ sở về phương diện kinh tế. Hàng trăm ngàn người được mệnh danh là tu sĩ nhưng thực chất chỉ là những kẻ dốt nát và thất nghiệp, đi lang thang khắp nơi qua những xóm làng và các thành phố trong những dịp hội hè, tế tự ở các đền chùa. Họ là những kẻ ăn mày xấc láo và lắm khi làm quấy rầy, gây phiền nhiễu cho người khác. Họ là một gánh nặng cho xã hội, vì họ không làm lợi ích cho đời để bù đắp lại những gì họ thụ hưởng.

Tuy nhiên, cũng có những tâm hồn cao quý đã từ bỏ cả địa vị cao sang hoặc bố thí hết tài sản của mình để dấn thân và dốc lòng tầm đạo. Họ là những tấm gương lành, tạo nguồn cảm hứng tốt đẹp và cao cả cho những người chung quanh ở bất cứ nơi nào có sự hiện diện của họ. Những cố gắng của họ để tự giác và giác ngộ kẻ khác hẳn phải có giá trị vượt xa so với mẩu bánh mì hay chén cơm lạt mà họ chấp nhận từ bá tánh.

lll

Màn đêm vừa buông xuống thành phố khi tôi đi dạo chơi quanh quẩn trên những đường phố nhỏ hẹp ở Calcutta. Tôi vẫn còn nghĩ đến cảnh tượng rùng rợn mà tôi vừa nhìn thấy hồi sớm mai. Chuyến xe lửa của chúng tôi chạy qua một khu rừng nguy hiểm đầy những loài beo gấm. Hồi đêm khuya, xe lửa cán nhằm một con beo và khi đến ga Howrah, xác con beo bị nghiền nát và đẫm máu hãy còn dính chặt vào những bánh sắt, và người ta đã phải vất vả khó nhọc lắm mới gỡ ra được.

Chuyến xe lửa này đầy chật hành khách, cũng như hầu hết những chuyến xe lửa chạy đường xa ở Ấn Độ. Trong toa xe mà tôi đã may mắn tìm được một chỗ nằm còn trống, những bạn đồng hành của tôi gồm một nhóm khá phức tạp. Những người hành khách thảo luận công khai những vấn đề làm ăn kinh doanh của họ, nên chẳng bao lâu mọi người đều biết rõ họ là ai và từ đâu đến.

Trong nhóm người này, tôi nhận thấy có một người Hồi giáo mặc áo dài bằng lụa den, cài nút đến tận cổ và đội một cái mũ tròn cũng màu đen có thêu chỉ vàng rất đẹp. Có một người thổ dân Mahratti miền Tây với cặp chân mày đậm, một người Marwari bịt khăn vàng thuộc thành phần lái buôn, làm nghề cầm đồ và cho vay bạc. Sau cùng là một anh chàng tác người vạm vỡ, thuộc dòng Bà-la-môn và làm nghề luật sư.

Tất cả đều là những người khá giả, có địa vị. Khi xe lửa ngừng ở mỗi nhà ga lớn, đều có những người gia nhân, tôi tớ đến săn đón và hỏi thăm những nhu cầu của chủ. Người Hồi giáo, sau khi đã ban cho tôi một cái nhìn im lặng bèn nhắm mắt lại và ngủ một giấc ngủ của người hiền, người thổ dân Mahratti thì còn đang đàm luận sôi nổi với người lái buôn, người Bà-la-môn thì vừa mới lên xe và còn chưa ngồi yên chỗ. Về phần tôi, tôi đang có hứng muốn nói chuyện nhưng không tìm được người đối thoại. Hình như có một bức rào vô hình ngăn cách tôi với những người hành khách khác, cũng như có nhiều sự cách trở giữa Đông và Tây phương. Nhưng tôi liền cảm thấy thoải mái dễ chịu khi tôi người Bà-la-môn da mặt hồng hào lấy ra một quyển sách với một cái tựa lớn bằng tiếng Anh nằm ngang một cách ngạo nghễ ở ngoài bìa “Đời sống của Ramakrishna”.

Tôi bèn nắm ngay lấy cơ hội để vào đề câu chuyện. Phải chăng có người đã nói với tôi rằng Ramakrishna là vị cuối cùng của những bậc siêu nhân ở Ấn Độ mà người ta gọi là các đấng Rishi? Tôi bèn mở đề câu chuyện về điểm này với người đồng hành của tôi, và anh ta sẵn lòng tiếp chuyện. Chúng tôi thảo luận về các vấn đề triết lý, hoặc đề cập đến những khía cạnh thông thường của đời sống ở Ấn Độ.

Mỗi khi anh ta nói đến danh từ Rishi thì giọng nói của anh ta xúc động với một lòng kính mến tôn sùng, và một tia sáng hiện rõ trong cặp mắt anh ta. Lòng sùng tín của anh ta đối với vị chân sư đã quá vãng này không còn phải nghi ngờ gì nữa.

Sau hai giờ đàm luận, tôi được biết rằng người Bà-la-môn này có một người thầy, vị này lại là một trong những vị đệ tử còn sót lại của đức Ramakrishna. Vị tôn sư của anh ta nay đã gần tám mươi tuổi, và không sống ẩn dật ở một nơi hẻo lánh nào, mà ở ngay trung tâm khu bản xứ của thành phố Calcutta. Tôi xin địa chỉ của thầy anh ta thì anh ta liền cho ngay và nói:

– Ông không cần giới thiệu, ông chỉ cần bày tỏ ý muốn gặp người là đủ.

Chính vì lý do đó mà hôm nay tôi đến Calcutta để đi tìm nhà của danh sư Mahasaya, đệ tử của đức Ramakrishna.

Đến nơi, tôi đi qua một cái sân rộng giáp mặt đường lộ, cuối sân có một cái thang đưa lên một ngôi nhà lớn và có vẻ cổ xưa. Một người trẻ tuổi đón tôi và mời tôi ngồi đợi trong một lát. Sau đó khoảng mười phút, tôi nghe có tiếng chân người bước vào phòng. Tôi không cần ai giới thiệu nữa, trước mặt tôi là một bậc kỳ lão đáng kính, hệt như những vị tộc trưởng được mô tả trong Kinh Thánh vào thời của giáo chủ Moise.

Ngài hơi sói đầu, có một bộ râu dài đã bạc trắng, cốt cách nghiêm trang, đôi mắt có vẻ trầm tư, đôi vai hơi còng xuống vì gánh nặng của gần tám chục mùa đông đã qua: Người đó không ai khác hơn là vị danh sư Mahasaya.

Ngài ngồi trên giường và quay mặt về phía tôi. Trước sự hiện diện nghiêm trang và đạo mạo của ngài, tôi nhận định ngay rằng đây không phải là nơi có thể nói ra những lời đùa cợt. Thậm chí, những lời biểu lộ sự hoài nghi hay châm biếm mà tôi thỉnh thoảng vẫn nói ra cũng hoàn toàn không thích hợp ở chốn này.

Bất cứ ai cũng có thể đọc được trên gương mặt và phong tư cốt cách của ngài một tâm hồn cao quý và một đức tin thuần khiết. Ngài nói với tôi bằng một giọng Anh ngữ lưu loát:

– Tôi rất vui được gặp ông ở đây.

Ngài bảo tôi đến gần và cùng ngồi trên giường với Ngài. Ngài cầm lấy bàn tay tôi trong một lúc. Tôi bèn tự giới thiệu và nói mục đích cuộc thăm viếng của tôi. Khi tôi nói xong, ngài lại siết chặt bàn tay tôi một cách thân mật và nói:

– Một sức mạnh thiêng liêng đã dìu dắt anh đến xứ Ấn Độ và giúp anh gặp gỡ những bậc hiền giả của xứ này. Việc ấy có một mục đích bí ẩn và tương lai sẽ tiết lộ cho anh biết. Anh hãy kiên nhẫn chờ đợi, rồi anh sẽ biết rõ.

– Xin ngài nói cho tôi biết vài điều về sư phụ của ngài, đức Ramakrishna.

– A! Đó là vấn đề mà tôi thích nói đến nhất. Sư phụ tôi qua đời đã gần nửa thế kỷ nay, nhưng tôi không thể nào quên được ngài. Hình ảnh của ngài vẫn luôn sống động và bất diệt trong tim tôi. Hồi đó, tôi hãy còn là một thanh niên mới hai mươi bảy tuổi khi gặp ngài, và từ đó về sau tôi vẫn luôn sống bên cạnh ngài cho đến những năm cuối cùng trước khi ngài viên tịch. Kết quả là tôi đã trở nên một người hoàn toàn thay đổi. Thái độ của tôi đối với cuộc đời đã thay đổi hẳn, và là do ảnh hưởng của đức Ramakrishna. Ngài tạo ra một sự xúc cảm tâm linh mãnh liệt cho tất cả những ai được gặp ngài. Ngài làm cho họ say mê, ngây ngất. Thậm chí những kẻ nặng mùi vật chất có ý định đến để đùa cợt chế nhạo cũng đều phải im lặng vì ngạc nhiên trước mặt ngài.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

– Nhưng làm sao những người đó có thể cảm thấy kính phục trước vấn đề tâm linh, một vấn đề mà họ không hề tin tưởng?

Đức Mahasaya mỉm cười đáp:

– Ta hãy đưa hạt tiêu cho hai người nếm thử. Một người biết rõ và đã quen mùi, còn người kia chưa biết hạt tiêu là gì. Tuy vậy, chẳng phải là cả hai người cùng nếm thấy một hương vị giống nhau đó sao? Chẳng phải là cả hai người sẽ cùng cảm nhận được vị cay của hạt tiêu trên đầu lưỡi đó sao? Cũng vậy, những người chủ trương chạy theo vật chất tuy không biết gì về sự cao cả tâm linh của đức Ramakrishna, nhưng không phải vì thế mà họ không nhận biết được cái ảnh hưởng tâm linh cao cả và thuần khiết luôn tỏa ra quanh ngài.

– Như vậy, chắc chắn ngài phải là một bậc chân sư siêu việt!

– Đúng thế, và theo tôi thì ngài còn cao cả hơn tất cả những danh xưng mà người thế gian hiện có. Ramakrishna là một người giản dị, mù chữ vì thất học. Ngài không viết được ngay cả tên mình, đừng nói chi đến việc viết một lá thư! Ngài có vẻ ngoài rất khiêm tốn, và còn khiêm tốn hơn nữa trong cung cách sinh hoạt hằng ngày. Tuy thế, ngài thâu phục được lòng tôn kính sùng mộ của cả những bậc thượng lưu trí thức đương thời. Những người này phải cúi đầu trước sức mạnh tâm linh cao cả của ngài, vì nó hiện hữu một cách cụ thể đến nỗi người ta có thể cảm nhận được rất rõ ràng. Ngài luôn dạy chúng ta rằng tiền tài, danh vọng, địa vị, quyền thế ở đời này chỉ là những thứ phù du giả tạm, không đáng kể so với đạo đức tâm linh, và chỉ là những trò hư ảo gạt gẫm giác quan con người.

Tôi luôn nhớ đến những ngày tuyệt diệu xưa kia khi được sống bên ngài. Hồi đó, ngài thường đắm chìm trong những cơn đại định thiêng liêng đến nỗi chúng tôi ngồi quanh ngài luôn cảm thấy dường như ngài là một vị thánh chứ không phải người thường. Một điều lạ là Ngài có khả năng đưa người đệ tử vào trạng thái nhập định chỉ với một cái sờ nhẹ bằng bàn tay. Trong trạng thái đó, họ có thể trực nhận những điều huyền diệu thâm sâu, bằng sự linh cảm trực tiếp. Để tôi nói anh nghe ngài đã ảnh hưởng đến tôi như thế nào. Tôi đã hấp thụ một nền học vấn theo giáo dục Âu Tây và lấy làm tự hào về kiến thức uyên bác của mình. Tôi đã từng là giáo sư đại học ở Calcutta, dạy các môn văn chương, Anh ngữ, lịch sử, và kinh tế chính trị.

Hồi đó, đức Ramakrishna ở tại đền Dakshineswar, cách thành phố Calcutta chừng vài dặm. Tại đó, vào một ngày mùa xuân mà tôi nhớ mãi, tôi đã gặp ngài. Ngài bày tỏ với những lời lẽ giản dị những ý tưởng tâm linh do kinh nghiệm trực tiếp của ngài. Tôi định thử bàn luận vài điều, nhưng tôi không nói được gì cả trước sự có mặt thiêng liêng của Ngài, vì nó ảnh hưởng đến tôi quá sâu sắc, không thể thốt ra thành lời. Từ đó trở đi, tôi đến viếng thăm ngài nhiều lần, và không thể nào rời xa ngài được nữa, cho đến một ngày kia, đức Ramakrishna nói đùa một cách hài hước rằng: “Có người đem cho con công ăn một liều thuốc phiện. Qua hôm sau, con công lại đến vào đúng giờ như hôm qua. Nó đã say mê mùi thuốc phiện và đến tìm một liều khác.

Quả đúng như vậy. Tôi chưa từng được hưởng những giờ phút an lạc tuyệt vời như khi tôi sống gần đức Ramakrishna. Vì thế, không có gì lạ khi tôi thường xuyên trở lại với ngài. Và rồi tôi trở thành một trong những đệ tử thân cận của ngài, không còn là một khách viếng thăm qua đường. Một ngày kia, sư phụ bảo tôi: “Thầy nhận thấy con có những tính chất thích hợp của một người yogi. Con hãy làm việc hết lòng ở thế gian, nhưng đừng quên vẫn để tâm trí vào việc tu tập pháp môn này. Gia đình, cha mẹ, vợ con... con hãy sống tròn trách nhiệm với họ và nuôi dưỡng họ như những người thế gian gương mẫu. Nhưng hãy nhớ rằng, con rùa bơi lội trên mặt hồ mà tâm trí vẫn hướng về một nơi trên hồ mà nó đẻ trứng. Con hãy làm công việc ở thế gian, nhưng hãy đặt tâm trí vào việc tu tập.

Sau khi sư phụ từ trần, phần nhiều các đệ tử tình nguyện xuất gia, khoác áo vàng và đem truyền bá giáo lý của đức thầy ở khắp nơi trong xứ Ấn Độ. Riêng tôi, tôi không bỏ nghề nghiệp cũ và vẫn tiếp tục dạy học. Tuy nhiên, trong lòng tôi đã quyết định dứt bỏ cuộc đời trần thế, mặc dầu bề ngoài tôi vẫn sống như mọi người thế tục. Có nhiều đêm, tôi đi lang thang như kẻ không nhà, và ngủ trên các vỉa hè của thành phố, chung lộn với những kẻ ăn mày hành khất. Điều này đem đến cho tôi cái cảm giác, ít nhất là tạm thời, của một người cùng đinh không tài sản, không gia đình. Ramakrishna không còn nữa, nhưng nếu anh đi châu du khắp xứ Ấn Độ, anh sẽ thấy những công trình cứu tế xã hội, từ thiện, y tế và giáo dục được thực hiện khắp nơi trong xứ dưới sự hướng dẫn của những vị đệ tử ngài thuở xưa, mà phần đông nay cũng đã qua đời. Điều mà anh không thấy một cách hiển hiện rõ ràng là những người đã hoàn toàn thay đổi tâm tính và xoay hướng cuộc đời của họ nhờ ảnh hưởng của đức tôn sư. Giáo lý của ngài đã được truyền khẩu qua các vị đệ tử. Những vị này về sau lại truyền bá rộng rãi trong dân chúng. Tôi đã được hân hạnh ghi chép những lời dạy của ngài bằng tiếng Bengal, những quyển sách giáo lý đó rất phổ thông khắp cả mọi gia đình trong tỉnh Bengale, và những bản dịch cũng được phát hành đi khắp các vùng ở Ấn Độ. Như thế, anh thấy ảnh hưởng của Ramakrishna đã phát triển rộng rãi như thế nào ngoài vòng các đệ tử trực tiếp của ngài.

Đức Mahasaya ngừng nói và đắm chìm trong im lặng. Tôi nhìn kỹ gương mặt ngài và lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng ngài có những nét mặt và màu da không giống như của người Ấn Độ. Dung mạo và cốt cách của ngài thật cao quí tuyệt vời. Lòng hảo tâm, thiện chí, đạo đức, từ bi và thành thật của ngài biểu lộ ra một cách rõ ràng. Ngài có đức tự tin của một người đã từng sống một cuộc đời hoàn toàn tuân theo tiếng gọi của lương tri. Tôi chợt hỏi:

– Không biết đức Ramakrishna sẽ nói thế nào với một người không thể chỉ sống bằng đức tin, mà còn đòi hỏi phải thỏa mãn lý trí?

– Ngài sẽ khuyên người ấy hãy quán xét nội tâm. Quán xét nội tâm là một phương pháp rất nhiệm mầu. Chính Ramakrishna đã quán xét nội tâm để đạt được đức tin và trí tuệ. Những người tự hào là có tri thức và đòi hỏi phải được thỏa mãn lý trí nhưng chưa có đức tin chỉ là vì họ chưa từng nhìn lại chính mình mà chỉ mải mê quan sát, phân tích ngoại cảnh. Một khi họ biết quay về quán xét nội tâm, họ sẽ thấy rằng trước đây họ thực sự chưa hiểu được gì cả. Nhờ đó mà họ phát khởi đạo tâm, và ngay sau đó sẽ có được đức tin chân chính.

– Nhưng nếu những người ấy không tin vào sự quán xét nội tâm, họ vẫn luôn cho rằng đã hiểu rõ được chính mình thì phải làm sao?

– Quán xét nội tâm là bước khởi đầu cơ bản nhất, là nền tảng cho bất cứ lý thuyết tâm linh nào. Nếu lý trí của anh ta thất bại ngay trong việc nhận biết tầm quan trọng của việc này thì mọi nỗ lực để cứu giúp một người như thế sẽ không bao giờ đạt tới kết quả.

– Nhưng nếu có người thực hành quán xét nội tâm mà không đạt được kết quả nào thì sao?

– Nếu vậy, người ấy nên thường tiếp xúc, gặp gỡ với những bậc chân tu đại đức đã từng có nhiều kinh nghiệm tâm linh. Sự tiếp xúc, gần gũi với những bậc ấy sẽ giúp anh ta khai mở được đạo tâm hãy còn tiềm tàng, và giúp anh ta nhận ra một điều là tất cả mọi người đều có một khởi điểm giống nhau trên đường tu tập. Những vị đã chứng ngộ hoặc có trình độ tu chứng cao có thể giúp chúng ta cảm nhận được sự giải thoát mà các ngài đã đạt được, và qua đó phát khởi niềm tin, hướng tâm theo về những mục đích cao cả hơn là cuộc sống thế tục. Trên hết mọi sự, các vị ấy là những tấm gương chói sáng về đạo đức, tinh thần, nên có thể làm phát khởi nơi chúng ta có một sự khao khát mãnh liệt muốn sống một đời sống tâm linh. Bởi vậy, sự tiếp xúc giao thiệp với những bậc thầy tâm linh là một bước đầu tiên rất quan trọng, và cũng thường được duy trì mãi cho đến giai đoạn thành tựu cuối cùng, như đức Ramakrishna vẫn thường dạy.

Cứ như thế, chúng tôi đàm luận về những vấn đề đạo đức tâm linh trong suốt những ngày tôi còn lưu trú ở Calcutta. Những buổi chiều thường luôn có khách đến viếng thăm cho đến khi gian phòng chứa đầy những người Ấn Độ, đa số là đệ tử của đức Mahasaya. Họ đến thăm đều đặn để lắng nghe một cách chú ý mỗi một lời dạy của thầy.

Không biết từ bao giờ, tôi cũng hòa nhập hoàn toàn với những người đệ tử ấy. Tôi đến thăm đức Mahasaya đều đặn, tuy không hẳn là để nghe đức Mahasaya thuyết pháp, mà đôi khi chỉ để được trầm mình trong bầu không khí tâm linh xán lạn nhờ có sự hiện diện của ngài.

Bầu không khí chung quanh ngài thật là tốt lành, êm đẹp, dịu dàng và đầy thiện cảm. Ngài đã tự mình tìm thấy sự an lạc tuyệt đối trong tâm hồn và sự an lạc đó tỏa ra quanh ngài một cách cụ thể, khiến người ta có thể dễ dàng cảm nhận được.

Tôi thường không nhớ hết những lời nói ngài nói ra, nhưng tôi không thể quên cái phong độ hiền từ, bao dung rộng lượng của ngài. Trước kia, đức Ramakrishna đã từng thu hút ngài như thế nào thì ngày nay có lẽ ngài cũng đang cuốn hút tôi giống như thế ấy, và tôi bắt đầu hiểu rằng nếu ngài có được một sức thu hút mãnh liệt như thế đối với tôi, thì vị tôn sư Ramakrishna của ngài chắc chắn phải có một ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng hơn gấp bội phần.

Đêm ấy là đêm cuối cùng tôi có mặt tại nhà đức Mahasaya. Tôi quên cả thời gian khi được ngồi cạnh ngài trên chiếc giường gỗ. Giờ khắc trôi qua một cách mau chóng cho đến khi chúng tôi đã dứt câu chuyện. Ngài cầm tay dắt tôi ra đứng trên nóc bằng của ngôi nhà để hóng mát.

Dưới ánh trăng rằm trong sáng, tôi nhìn thấy những cây kiểng và những khóm hoa trồng trong chậu sắp thành hàng rất đẹp. Dưới chân chúng tôi đang tỏa chiếu muôn ngàn ánh đèn rực rỡ của thành phố Calcutta. Đức Mahasaya đứng im lặng cầu nguyện trong một lúc. Sau đó, ngài quay lại đưa tay lên làm một cử chỉ ban ân huệ và đặt nhẹ bàn tay lên trán tôi. Tôi cúi đầu một cách khiêm tốn trước mặt ngài, tuy rằng tôi vẫn chưa dám nhận rằng mình có lòng tín ngưỡng tôn giáo.

Sau một lúc im lặng, ngài nói với một giọng nhẹ nhàng:

– Sứ mạng của tôi đã gần chấm dứt. Thể xác này đã làm gần xong công việc của nó trong kiếp hiện tại. Anh hãy nhận lấy ân huệ của tôi trước khi tôi ra đi.

Ngài đã làm cho tôi xúc động một cách lạ lùng. Trên đường về, tôi đi bách bộ thẩn thơ qua nhiều đường phố và quên cả giấc ngủ. Tôi nghĩ rằng, nếu ở thế gian này có một người có thể làm cho tôi thoát khỏi sự hoài nghi và sống với một đức tin đơn giản, thì người đó chắc hẳn không ai khác hơn là vị danh sư Mahasaya này.

lll

Bác sĩ Bandyo, giám đốc một bệnh viện tại Calcutta, là một trong những chuyên gia phẫu thuật tài ba nhất ở thành phố này. Ông đã thực hiện được tất cả sáu ngàn cuộc phẫu thuật, và tôi đã có dịp thảo luận với ông một số kiến thức về khoa Hatha Yoga mà tôi đã thâu thập được.

Tầm kiến thức rộng rãi của ông ta về Y học và Cơ thể học đã giúp tôi hiểu thêm rất nhiều về vấn đề Yoga trên bình diện khoa học. Bác sĩ nói:

– Tôi hầu như không biết gì về khoa Yoga. Đó là một vấn đề mới lạ đối với tôi. Tôi cũng chưa từng gặp một người yogi nào, ngoài Narasingha Swami. Người này đến Calcutta cách đây không bao lâu.

Tôi hỏi thăm về người yogi này, nhưng câu trả lời làm tôi thất vọng:

Narasingha Swami đã đến Calcutta, gây ra một luồng dư luận sôi nổi, rồi sau đó đi đâu không ai biết. Hình như anh ta đã sống ẩn dật trong vùng nội địa trước khi đến thành phố này, như vậy có lẽ anh ta đã trở về nơi am thất của anh ta.

– Xin bác sĩ cho biết việc gì đã xảy ra?

– Anh ta đã làm cho cả thành phố bàn tán về anh ta trong một thời gian ngắn. Người đã khám phá ra anh ta là bác sĩ Neoghy, giáo sư hóa học tại trường Đại học Calcutta, khoảng hai tháng trước tại Madhupore. Bác sĩ Neoghy tận mắt nhìn thấy anh ta liếm vài giọt chất cường toan rất độc, và để than hồng vào miệng ngậm cho đến khi hòn than tắt hẳn. Bác sĩ lấy làm ngạc nhiên và mời người yogi này đến Calcutta. Trường Đại học của thành phố này liền tổ chức một buổi trình diễn trước công chúng để cho Narasingha biểu diễn năng lực của anh ta trước một cử tọa bao gồm cả các nhà bác học và y sĩ. Tôi cũng có mặt trong số người được mời đến chứng kiến. Cuộc biểu diễn được tổ chức tại giảng đường Vật lý học. Chúng tôi là một thành phần gồm các nhà khoa học, có một khối óc phê bình chặt chẽ, và như ông đã biết, tôi ít chú ý đến các vấn đề tôn giáo, Yoga, và những vấn đề tương tự, vì tôi đã để hết thời giờ và tâm trí vào ngành Y khoa. Người yogi đứng ngay giữa giảng đường, và người ta đưa cho anh ta những thứ thuốc độc lấy từ trong phòng thí nghiệm hoá học của trường. Trước hết, chúng tôi đưa cho anh ta một lọ acide sulfurique. Anh ta rót vài giọt trên lòng bàn tay và đưa lưỡi liếm. Kế đó, người ta đưa cho anh ta một lọ a-xít phenol cực mạnh, và anh ta cũng làm như trên. Chúng tôi liền thử với một loại thuốc độc nhất là chất Cyanure de Potassium, nhưng anh ta nuốt luôn cả thứ này mà vẫn dửng dưng như không.

Sự kiện này thật là lạ lùng và thật không thể nào tin được. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn phải chấp nhận sự thật hiển nhiên diễn ra ngay trước mắt chúng tôi. Anh ta đã nuốt một liều Cyanure de Potassium đủ mạnh để giết chết một người trong vòng ba phút đồng hồ! Tuy thế, anh ta vẫn đứng trơ trơ, nhăn răng cười và không hề hấn gì cả.

Sau đó, một chai thủy tinh dày được đập vỡ ra từng mảnh và tán thành bột. Narasingha Swami nuốt luôn cả thứ bột miểng chai này, là một thứ giết người một cách chậm chạp. Ba giờ sau khi anh ta đã nuốt trôi bữa ăn khác thường này, một vị bác sĩ trong nhóm liền đặt ống bơm vào bao tử của người yogi và bơm ra những gì còn lại. Những loại thuốc độc kể trên vẫn còn y nguyên trong bao tử.

Qua hôm sau người ta nhận thấy chất bột miểng chai trộn lẫn với phẩn của anh ta khi đại tiện. Cuộc thí nghiệm của chúng tôi đã quá rõ ràng.

Người ta thử lại cường độ của chất acid sulfuric thì thấy nó làm tan rã một vật bằng đồng. Trong số những người chứng kiến cuộc trình diễn có Sir C. V. Raman, nhà bác học trứ danh đoạt giải thưởng Nobel. Ông này tuyên bố rằng cuộc trình diễn của người yogi là một sự thách thức lớn đối với khoa học hiện tại.

Khi chúng tôi hỏi Narasingha Swami làm sao anh ta có thể bắt thể xác của anh ta chịu đựng được những sự thí nghiệm đó, anh ta nói rằng bằng cách tập trung tư tưởng anh ta có thể chặn đứng và hóa giải ảnh hưởng khốc hại của các thứ thuốc độc.

Tôi được biết rằng Narasingha Swami đã trở lại Calcutta sau đó ít lâu rồi sang Rangoon, thủ đô Miến Điện. Tại đây, anh ta cũng trổ tài trong một cuộc trình diễn tương tự.

Tôi bèn hỏi bác sĩ Bandyo:

– Bác sĩ có thể giải thích sự kiện này bằng lý thuyết y học được chăng?

Vị bác sĩ lắc đầu:

– Không, tôi không thể giải thích nổi. Việc này hoàn toàn làm tôi ngạc nhiên và không hiểu gì cả.

Khi tôi trở về nhà, tôi lục trong mớ tài liệu cất kỹ trong rương để tìm quyển sổ mà tôi đã ghi chép những cuộc nói chuyện của tôi với Brama, người đạo sĩ trên bờ sông Adyar ngày trước. Tôi lật qua vài trang và thấy những dòng tài liệu này:

“Những thuốc độc dầu mạnh đến bực nào cũng không thể làm hại được vị đạo sĩ đã thực hành giai đoạn Đại công phu. Giai đoạn này gồm có sự phối hợp một vài loại tư thế, phép khí công, luyện ý chí và tập trung tư tưởng. Khi đạt đến trình độ này, người đạo sĩ có thể nuốt vào bụng bất cứ vật gì, dầu là thuốc độc, mà không bị tổn hại đến sức khỏe. Đó là một phép công phu rất khó và phải được luyện tập một cách đều đặn, thường xuyên, nếu muốn có kết quả tốt đẹp.

Tôi có nghe nói về một người yogi sống ở thành Bénarès có thể uống rất nhiều thuốc độc mà không sao cả. Vị yogi này tên là Trailingya Swami, ông ta nổi tiếng ở thành phố này hồi thời kỳ đó, nhưng đã qua đời từ nhiều năm nay. Trailingya là một đạo sĩ có bản lĩnh rất cao cường về môn Hatha Yoga. Ông ta thường ngồi bên bờ sông Hằng suốt nhiều năm, gần như không mặc áo quần gì cả, nhưng không ai có thể nói chuyện được với ông ta, vì ông ta tịnh khẩu.”

Tôi tưởng rằng sự kiện này thật không thể tin và không thể có được, thì những lời của Brama đã giải thích cho tôi rõ về vấn đề này. Đôi khi tôi đã lấy làm thắc mắc về những việc làm không thể tin và không thể hiểu được của những người đạo sĩ Yogi. Nhưng biết đâu, có lẽ họ nắm giữ được những bí quyết của đời sống mà người phương Tây đang cố gắng để khám phá bằng hàng ngàn cuộc thí nghiệm khoa học hay chăng?



Tức Chandrasekhara Venkata Raman (1888-1970), nhà vật lý học Ấn Độ đoạt giải Nobel Vật lý năm 1930.

Các tin đã đăng:
» Ảnh đẹp
» Liên kết website
Search
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch