Chương
16. Giành lại mảnh đất xưa
Nam Dương (Indonesia)
Sự viếng thăm của các nhà theo
thuyết thần trí Tây phương ở Nam Dương vào năm 1883 đã đánh thức lại sự yêu
thích Phật giáo nơi người Trung Hoa, chiếm ba phần trăm dân số, và người Nam
Dương Hồi giáo chiếm số đông, lúc nào cũng ham thích sự huyền bí. Các cuộc
truyền bá Phật pháp từ Tích Lan (1929) và Miến Điện (1934). Vào năm 1955, Ashin
Jinarakkhita, một tăng sĩ Trung Hoa được thọ giới ở Miến Điện, trở lại Nam
Dương. Các tu viện Phật giáo Nam
tông được xây dựng, được giúp đỡ vì sự yêu thích được đánh thức bởi ngày lễ của
Đức Phật Jayanti. Việc thọ
giới và vô số cuộc cải đạo đã diễn ra nơi dân chúng của miền đông Java, họ vẫn
còn bám chặt vào thuyết hổ lốn thần Śiva-Phật giáo, giống như người Trung Hoa.
Vào năm 1965, vì cuộc đảo chánh có tính cách Cộng Sản, chính phủ cấm tất cả mọi
hội đoàn nghi ngờ hoặc phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế.
Đây tạo nên một vấn đề cho Phật
giáo Nam
tông “vô thần”.
Ngài Jinarakkhita đề nghị
“Thượng đế” của Phật tử là Đức Phật Ādi, một vị Phật Nguyên Thủy của vùng nầy
trong Phật giáo Mật tông, trong khi những người theo phái Phật giáo Nam tông
chính thống cho rằng Niết Bàn (Nibbāna),
cái “vô sanh”, là “Thượng đế” của họ. Nói chung, ngài Jinarakkhita ủng hộ Phật
giáo đã phần nào bị hỗn hợp. Trong khi Phật giáo Nam tông chiếm phần lớn về
việc giảng dạy, Phật giáo Nam tông sử dụng vài bài văn tiếng Sanskrit và Java,
gồm có sự liên quan đến các vị Phật và Bồ-tát (Bodhisattva) của Đại thừa (Mahāyāna) trong việc lễ lạy, và rút ra những yếu tố lễ
nghi của Phật giáo Trung Quốc. Sự gia tăng về hoạt động của Phật tử ở Nam Dương
đã đưa đến một hoạt động lớn hơn nơi Phật tử Trung Hoa và một sự hồi sinh nơi
thần Śiva-Phật giáo cũng có mặt ở đảo Bali. Cuộc
truyền giáo của người Thái đã củng cố nhiều truyền thống Phật giáo Nam tông vào
năm 1970, và bắt đầu có một Tăng đoàn với các tăng sĩ dân bản xứ. Vào năm 1977,
có khoảng từ hai cho đến ba triệu người dân Phật tử ở Nam Dương.
Ấn Độ
Bắt đầu thế kỷ thứ mười chín,
các học giả Ấn Độ và Tây phương học hỏi về gia tài Phật giáo của Ấn Độ xuyên
qua khảo cổ học và sự tìm tòi kinh sách. Từ năm 1890, các tác phẩm Phật giáo
nổi tiếng xuất hiện, và nhà văn Rabindranath Tagore đã thêm vào những đề tài
Phật giáo trong các bản kịch của ông. Hội đoàn Đại Bồ đề (Mahā Bodhi Society) của Dharma-pāla
phát triển những trung tâm ở vô số thành phố và giúp nâng cao sự chú tâm về
Phật giáo Ấn Độ. Phật giáo dần dà đã làm một số người Ấn có học thức cải đạo,
và một hội viên cũ của Hội đoàn MBS đã làm việc cải đạo cho những người thuộc
thành phần hạ cấp ở miền nam. Vào những năm 1920 và 1930, Hội MBS liên kết với
những bài viết của nhóm học giả trí thức. Việc nghiên cứu học thuật và những
bài viết phổ biến của ba tăng sĩ Ấn Độ nổi tiếng, R. Sankrityayan, A.
Kausalyayan và J. Kashyap.
Niềm yêu thích Phật giáo Ấn Độ được
khơi dậy, đã đưa đến việc xuất bản vô số sách về tôn giáo.
Vài nhà trí thức thế tục trở nên
thích thú với chủ nghĩa “duy lý”, và vì chủ nghĩa nầy không ủng hộ sự phân biệt
giai cấp, nhưng thường thì họ không chính thức trở thành Phật tử. Phật giáo
thường được xem như là một phần của Ấn giáo, mà họ tin tưởng mạnh mẽ vào bản
chất tự nhiên của xã hội.
Vị thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ độc
lập, Jawaharlal Nehru, là một nhà Phật tử “trí thức”. Phần lớn giới nầy thường
ở giai cấp trung lưu, của những sát nhập tôn giáo khác nhau, họ cũng tham dự
vào “những trại thiền” mười ngày. Nơi đây dạy thiền Vipassanā như là một phương
cách để sống một cuộc sống hài hòa, và có thể được xem là một dạng của Phật
giáo hiện đại.
Phần đông các Phật tử “mới” ở Ấn
Độ là những hội viên cũ của các giai cấp “không được chạm đến”, là những người
theo Giáo sư B. R. Ambedkar (18921-1956). Những người Phật tử “Ambedkar”, có
con số khoảng 4,5 triệu, phần lớn tập trung ở miền Tây của tiểu bang
Maharashra, nơi mà họ chiếm khoảng 7 phần trăm dân số. Những giai cấp không
được chạm đến được gọi là “những giai cấp bị sắp đặt” từ năm 1935, gồm một nhóm
tiện dân bị xã hội ruồng bỏ về mặt kinh tế theo truyền thống, họ bị đặt dưới cả
thành phần nô lệ (Śūdras)
trong xã hội Ấn giáo. Họ làm những công việc nhơ nhớp như quét rửa đường xá, và
bị khinh khi, nhất là bị giới Bà-la-môn coi rẻ hơn con người.
Ambedkar, dù là một người nằm
trong giai cấp không được chạm đến, đã xoay sở để có được một nền học vấn ở Ấn
Độ và ở nước ngoài. Ông trở thành một luật sư và từ năm 1920, hoạt động cho
việc giải phóng những người ở giai cấp không được chạm đến trong nấc thang thấp
của Ấn giáo. Ông thấy rằng có rất nhiều cái ác trong xã hội Ấn Độ, và ông xem
hệ thống giai cấp là gốc rễ của tất cả những xấu ác. Vào năm 1936, ông thành
lập Liên Đoàn Những Giai Cấp được Sắp Đặt (Scheduled
Castes Federation) để khắc phục quyền lực chính trị của các người
Bà-la-môn, mà ông thấy rằng chính họ là nền tảng của hệ thống giai cấp. Là một
vị thủ tướng luật pháp của chính phủ sau lần đầu tiên độc lập, ông bảo đảm là
hiến pháp bảo vệ những quyền lợi của các hội viên trong giai cấp bị sắp đặt.
Vào năm 1935, Ambedkã tuyên bố
ông sẽ từ bỏ Ấn giáo cho một tôn giáo mới, và đây là một cách tiến triển cho
các hội viên giai cấp bị sắp đặt. Ông được mời gọi đến với những tôn giáo khác,
nhưng ông từ chối Thiên Chúa giáo và Hồi giáo vì gốc gác của các tôn giáo nầy
không thuộc về dân Ấn, và vì các hội viên Ấn của hai tôn giáo Thiên chúa và Hồi
cũng bị ảnh hưởng với thái độ giai cấp. Ông cũng nhận thấy rằng Thiên Chúa giáo
có tính cách cá nhân và không thích Hồi giáo vì đạo nầy có khuynh hướng cố chấp
và ép buộc sự tách biệt đối với phụ nữ trong tục che mặt (purdah). Đồng thời ông cho rằng Phật
giáo là một tôn giáo bình đẳng và duy lý, nhấn mạnh về tình thương yêu, công
bằng và tự do tâm linh. Ông muốn tránh những việc như tiêu phí về những hoạt
động tạo “công đức”, tuy nhiên, ông cho mình là một người “Phật tử mới”. Đối
với ông, Phật giáo là một chân lý xã hội, mà Đức Phật đã có ý định là các tăng
sĩ là những người mang đuốc chân lý cho một xã hội mới lý tưởng. Vì thế các
tăng sĩ phải là “những nhà hoạt động xã hội và đồng thời là những nhà truyền giáo”,
giống như các vị giáo sĩ Thiên Chúa giáo. Việc giảng dạy về giáo pháp của Phật
là một cách để mang đến cho con người sự tự trọng, và một nền dân chủ cho xã
hội. Vào năm 1956, Ambedkar và khoảng 500.000 hội viên giai cấp bị sắp đặt đã
cải đạo và đến với Phật giáo trong buổi lễ “quy y” công khai. Những buổi lễ cải
đạo sau đó tiếp diễn, và vẫn còn tiếp tục dù trên một bình diện nhỏ hơn. Phật
giáo của Ambedkar chú trọng vào sự đổi mới đạo đức của cá nhân và xã hội. Nhấn
mạnh về lòng kính ngưỡng, nhưng không nhấn mạnh về thiền định, và Ambedkar được
chấp nhận là “nơi nương tựa” thứ tư, và được xem là một vị Bồ-tát (Bodhisattva). Những bài giảng Phật giáo
của Ambedkar cũng giống như những bài giảng của Phật giáo Nam tông hiện
đại.
Sự cải đạo có nghĩa là các Phật
tử Ambedkar đã khắc phục được ý nghĩa tính chất thấp kém, và kinh nghiệm về
lòng tự trọng của họ được nâng cao lên. Họ sốt sắng trong việc tiến bộ về học
vấn, và kinh nghiệm kinh tế được tốt đẹp hơn, thí dụ bằng cách giảm bớt nhiều
cho chi phí hôn lễ theo truyền thống. Những người Phật tử của thế hệ đầu tiên
đã có nhiệm vụ phát triển sự hiểu biết về tôn giáo mà họ vừa thích nghi, nhiệm
vụ nầy không phải là không khó khăn ở buổi ban đầu.
Các viên chức cư sĩ đã từng học
tập trong vòng sáu tháng đã dẫn đầu phần lớn về hoạt động nầy. Vào năm 1970, có
khoảng bốn mươi tăng sĩ, nhưng các việc học tập không đúng tiêu chuẩn, vì thế
chỉ có một số ít là có học thức. Các Phật tử Ambedkar phần đông thường là các
hội viên cũ của giai cấp Mahar và Jatar, và thật ra bây giờ có chiều hướng bị
xem là một giai cấp mới (thấp): dù họ chưa làm vỡ được khuôn đúc. Tuy vậy, con
số Phật tử Ambedkar cũng đang tiếp tục gia tăng.
Các người Phật tử hành hương từ
những nước khác nhau bây giờ thăm viếng những nơi có liên quan đến cuộc sống
của Đức Phật ở Ấn Độ, đặc biệt là Bodh-Gayā, nơi mà Đức Phật thành đạo. Nơi
đây, có một tu viện lớn của Tây Tạng, một ngôi chùa Nhật Bản và một trường học
cho trẻ em trong vùng, một ngôi chùa Thái, một nhà nghỉ được điều hành bởi các
tăng sĩ Tích Lan của hội MBS, một tu viện của Miến Điện, và một ngôi chùa nhỏ
của Trung Hoa. Các dân làng quanh vùng bắt đầu hướng về Phật giáo. Trong một ý
nghĩa quan trọng, Phật giáo đã bắt đầu ở Bodh-Gayā, và điều nầy rất thích hợp
và nơi đây bây giờ là một thế giới vi mô của thế giới Phật giáo.
Phật giáo vượt xa hơn Á
châu
Quyền lực Âu châu lan rộng đến Á
châu, đặc biệt là ở Ấn Độ, sự hiểu biết về những tôn giáo Á châu trở nên nền
móng đứng đắn và hoàn toàn hơn. Sự thay đổi ý nghĩ của Âu châu cũng đưa đến
việc cởi mở chấp nhận những ý tưởng từ các tôn giáo phi-Thiên Chúa giáo.
Vào thế kỷ thứ mười tám, sự thức
tỉnh được nhấn mạnh về mặt “lý trí” và “khoa học” đã làm suy yếu sự nương tựa
vào quyền lực “mặc khải” trong những việc có tính cách tôn giáo, và một số
người nghĩ rằng họ nhìn thấy mọi người trong những nền văn hóa khác nhau đều có
chung một “tôn giáo thiên nhiên”, nhưng được bày tỏ rõ ràng nhất là Thiên Chúa
giáo. Vào thế kỷ thứ mười chín, những tiến bộ về địa chất học và việc học tập
Kinh thánh đã làm suy yếu việc giải thích Kinh thánh theo nghĩa đen, và những
khái niệm về vô số sự tiến hóa có tính cách sinh vật học dường như đã bao phủ
nhiều nghi ngờ về việc tạo thiên lập địa trong Thiên Chúa giáo. Trong ý nghĩa
nầy, ý tưởng làm nên một cuộc nghiên cứu về tất cả các tôn giáo có tính cách
“khoa học”, “có thể so sánh được” đã được đề ra.
Những yếu tố nầy đã tập hợp lại
vào hai mươi năm cuối của thế kỷ thứ mười chín, nơi đây có sự hâm mộ Phật giáo
“hiện đại” trong những thành phần của giới trung lưu ở Mỹ, Anh và Đức. Như
Thiên Chúa giáo, Phật giáo có một hệ thống đạo đức cao quý nhưng đây là một tôn
giáo về sự tự giúp, không nương tựa vào Thượng đế hay các thầy tế lễ. Giống như
khoa học, Phật giáo dựa vào kinh nghiệm, thấy vũ trụ được vận hành theo một quy
luật, và không xem con người hay thú vật là triệt để khác nhau. Nhưng cho những
người có sở thích về sự huyền bí, thì Phật giáo mang đến một cái gì đó nhiều
hơn là khoa học.
Sự uyên bác
Những bài giảng Phật giáo đầu
tiên được thực hiện bằng tiếng Sanskrit [phần lớn là Đại thừa (Mahāyāna)] từ Nepal, được một
người Anh tên là B.H. Hodgson kết tập. Nhà học giả người Pháp Eugène Burnouf
dùng những bài văn nầy để sản xuất một quyển sách của ông “Giới thiệu lịch sử
Phật giáo Ấn Độ” [Introduction à
l’histoire du Bouddhisme indien(1845)],
và một bản dịch của Kinh Pháp hoa (Lotus
Sūtra) (1852).
Ở Tích Lan, các giáo sĩ bắt đầu
học về giáo pháp Phật, dù quan niệm méo mó của họ cho rằng truyền thống Nam tông là một
tôn giáo chán đời và thiếu sót. Vào khoảng năm 1800, các học giả người Anh, Đức
và Scandinavian đã điều chỉnh lại điều nầy, như V. Fausboll, đã chọn lọc quyển
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) và
chuyển dịch kinh nầy sang tiếng La-tinh vào năm 1855. Hai bài tường thuật nổi
tiếng về đời sống và giáo pháp của Đức Phật dựa vào những tài liệu tiếng Pali,
đó là quyển Đức Phật, Đời sống, Giáo pháp, Tăng đoàn (1881, bằng tiếng Đức) (The Buddha, His Life, His Doctrine, His Community)
của Hermann Oldenberg,và quyển Phật giáo (Buddhism) (1878) của T. W. Rhys Davids,
người đã từng phục vụ việc hành chánh trong vòng tám năm ở thuộc địa Tích
Lan.
Bên Anh cũng vậy, ông F. Max
Muller, người Anh, gốc Đức chọn lọc năm mươi mốt bộ Những tập Sách Thiêng Liêng
của Á châu (Sacred Books of the East
series) (1879-1910), chứa đựng những bản dịch của một số bài văn
Phật giáo. Ở Mỹ, Henry Clarke Warren, người cùng sáng lập Harvard Oriental
Series (1891), và sản xuất những bản dịch hợp tuyển tuyệt hay từ Bộ Kinh Pali,
Phật giáo nơi những Bản dịch (Buddhism in
Translations) (1896). Đặc biệt quan trọng nhất là hoạt động của Hội
đoàn ấn bản Pali (Pāli Text Society)
do ông Rhys Davids (1843-1922) sáng lập ở Anh quốc vào năm 1881. Mục đích của
hội là phát hành những bản bình luận, bằng chữ La Mã, của các bài giảng trong
Kinh Pali và những lời chú thích, cùng với những bản dịch. Sự thích thú tìm
hiểu về Bộ Kinh Pali xuất hiện vì nơi đây được xem là gìn giữ “những bài giảng
chính gốc” của Đức Phật, được xem là một người Thầy đạo đức và duy lý, với
những yếu tố siêu tự nhiên, những điều có tính cách lễ nghi được xem là phần
thêm vào sau nầy. Sự hợp tác quốc tế giúp cho hội PTS (Pāli Text Society) xuất bản phần lớn
các bài của Bộ kinh bằng tiếng Pali vào năm 1910, và vào năm 1989, hội đã xuất
bản 176 bộ kinh và 74 bản dịch, cùng với những tác phẩm giúp cho việc học tập kinh
điển.
Vào đầu thế kỷ thứ hai mươi,
những bài kinh bằng tiếng Tây Tạng và Trung Hoa được học tập. Ở Nga, T.
Stcherbatsky, một học giả triết lý Phật giáo, đã lãnh đạo một đội học giả xuất
bản những tác phẩm như “Khái niệm Phật giáo và Ý nghĩa của chữ Pháp” (Conception of Buddhism and the Meaning of the Word
Dharma) (1923), và “Lô-gích Phật giáo” (Buddhist Ý thức hệ) (1930). Những học giả khác, phần lớn
là người Pháp và người Bỉ, học hỏi về những khía cạnh tôn giáo và lịch sử của
Đại thừa (Mahāyāna), với L.
de La Vallée Poussin sản xuất những bản dịch Thắng Pháp (Abhidharma-kośa) và những tác phẩm
chánh của Du già tông (Yocāgāra).
Sự hiểu biết về Zen Phật giáo được giúp đỡ nhiều do những bài viết nổi tiếng có
tính cách học giả của Giáo sư D. T. Suzuki, thí dụ những bài luận về Thiền Phật
giáo, Tập I (1927) (Essays in Zen
Buddhism, First Series).
Từ lúc Đệ Nhị Thế Chiến, các học
giả như E. Lamotte (1903-83) tiếp tục trường học Pháp-Bỉ. Những tiến bộ trong
sự học tập về Phật giáo Bắc tông được thực hiện bằng những cuộc du lịch và
những bài dịch của G. Tucci, người Ý, trong khi những học giả Nhật và Ấn đã có
những đóng góp quan trọng đối với việc học hỏi Phật pháp quốc tế. Sự khám phá
về những bài kinh từ Trung Tâm châu Á được xem là nhiều như cát, và những ngôi
chùa trong hang động ở Tun-huang, Trung Quốc, cũng đã mở ra những phạm vi mới
cho việc nghiên cứu. Edward Conze (1904-79) tiến hành sự học hỏi về văn chương
Bát Nhã (Perfection of Wisdom), và
quyển sách Phật giáo (Buddhism) của
ông (1951), Những Bài Văn Phật giáo qua nhiều thế hệ (Buddhist Texts Through the Ages)
(1954), Kinh Phật giáo (Buddhist
Scriptures) (1959), và Ý nghĩ Phật giáo ở Ấn Độ (Buddhist Thought in India) (1962), đã
gieo rắc sự hiểu biết về Phật giáo. Từ năm 1960, việc học tập về Phật giáo đã
được thiết lập trong các trường đại học phương Tây.
Các học giả Tây phương vì vậy đã
giữ một vai trò quan trọng trong việc mang lại kiến thức Phật giáo cho phương
Tây. Điều nầy được bày tỏ trong các tác phẩm uyên bác và nổi tiếng và trong
những cuộc triển lãm về đồ cổ và nghệ thuật Phật giáo. Một cách gián tiếp, điều
nầy cũng đưa đến những luận bàn về Phật giáo trên truyền hình và đài phát
thanh. Các tác phẩm về Phật giáo bây giờ đã được các nhà in Phật giáo sản xuất
hàng loạt. Ở Mỹ có các nhà xuất bản như Shambhala, Dharma và Snow Lion
Publication, và ở Anh có Wisdom và Tharpa Publications.
Ảnh hưởng Phật giáo qua
văn chương và triết học
Phật giáo qua một nguồn khác đã
lan truyền đến Tây phương qua hoạt động của vài nhà văn và triết gia. Ở Đức,
Arthur Schopenhauer (1788 – 1860) đã kinh ngạc khi nhận thấy những tương đương
giữa triết lý của ông và những lý tưởng của Phật giáo và Ấn giáo mà ông đã phần
nào đúc kết thành một. Tác phẩm chánh của ông, “Thế giới như Ý chí và Điển
hình” (The World as Will and Representation)
(1818 và 1844, tiếng Đức), chứa đựng vô số tham khảo liên quan đến Phật giáo,
đặc biệt là trong tập hai, trong khi các giáo sĩ Thiên Chúa giáo phê bình sự
“yếm thế” của Phật giáo, Schopenhauer xem Phật giáo là tôn giáo hay nhất, ông
thấy đây là sức mạnh của Phật giáo, khi chấp nhận một cách thực tế sự hiện hữu
của khổ đau trong thế gian. Sự yêu thích Phật giáo của Schopenhauer đã ảnh
hưởng đến Wagner trong sáng tác nhạc kịch của ông, “Tristan và Isolde” (Tristan and Isolde) (1855). Vào khoảng năm
1830 và 1840, những nhà văn Mỹ theo thuyết tiên nghiệm, R. W. Emerson và H. D.
Thoreau cũng nhờ đến những đề tài Ấn Độ. Tuy nhiên, để phát triển triết lý có
tính cách cá nhân, trực giác và đa thần, phần lớn các tư liệu gốc của họ đều
bắt nguồn từ Ấn giáo.
Ở Anh quốc, ngài Edwin Arnold,
chủ bút của tờ báo Điện Tín Hằng Ngày (Daily
Telegraph), xuất bản quyển “Ánh Sáng Á Châu” (Light of Asia) (1879), một bài thơ kể
về cuộc đời Đức Phật. Quyển sách nầy đã đưa đến sự yêu thích khắp nơi về Phật
giáo, như nơi các giai cấp trung lưu ở Anh và Mỹ quốc, và giúp cho sự hồi sinh
của Phật giáo ở Tích Lan. Arnold là một người Thiên Chúa giáo tự do, rất thích
thú với Phật giáo. Bài tường thuật của ông với phương cách phong phú, đa cảm,
gây ấn tượng sâu sắc, đã miêu tả Đức Phật như là một nhân vật có những điểm
tương đồng với Jesus. Vào năm 1885, Arnold viếng thăm Bodh-Gayā và rồi du lịch
sang Tích Lan và Nhật Bản để cổ động sự ủng hộ về việc trùng tu di tích nầy và
những thánh địa khác. Điều nầy đã làm cho Anagārika Dharmapāla phải viếng thăm
địa điểm nầy, và sau đó ông thành lập Hội đoàn Đại Bồ Đề (Mahā Bodhi Society).
Các tiểu thuyết của nhà văn Đức
Hermann Hesse sử dụng những đề tài Phật giáo, nhất là quyển sách Siddhartha (1922) có ảnh hưởng rất sâu
rộng, và Carl Jung, nhà phân tâm học, người Thuỵ Sĩ, đã tìm thấy những tương
đồng giữa những giấc mơ có tính hiệu và những Mạn-đà-la (maṇḍalas) của Tây Tạng. Vào năm 1950,
quyển sách The Dharma Bums và
On the Road của Jack Kerouac
thấm đậm những đề tài Zen vào trong văn hóa hỗn loạn của phong trào Beat (Beat sub-culture).
Sách của Aldous Huxley, “Các
cánh cửa khái niệm và Thiên đàng và Điạ ngục” (The Door of Perceptions and Heaven and Hell) (1956) đã
khơi dậy sự yêu thích về thiền Đông phương bằng cách (một cách sai lầm) so sánh
sự giác ngộ với những kinh nghiệm dưới ảnh hưởng của các chất gây ra ảo giác, mescaline. Vào năm 1960, thành phần
liên kết nầy đã giúp cho Phật giáo được nhiều người chú ý tới, dưới ảnh hưởng
của phong trào Híp-pi (Hippie).