Phật pháp căn bản
Một Trăm Ngày Niệm Phật & Một Trăm Bài Pháp (Trọn bộ)
Thích Giác Quang
14/03/2012 10:37 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng


59. NGÀY THỨ NĂM MƯƠI CHÍN:

Ý nghĩa Tích trượng

(cây gậy của các bậc Trưởng lão thời xưa)

Vấn: - Chúng con đi dự lễ, trong những cuộc lễ quan trọng của Giáo Hội Phật giáo, ban tổ chức rước chư đại lão Hòa thượng có cầm theo hai cây tích trượng, hai cây bê, hai cây lọng để cung nghinh. Trong những năm quý Sư còn đi khất thực, như Tăng đòan chùa Linh Quang thuộc môn phái khất sĩ Ðại sư Huệ Nhựt ở gần chợ Bà chiểu quý Sư đi trì bình khất thực, đi đến từng nhà, có cầm theo tích trượng lắc kêu nghe len ken, cho đến khi vị tín chủ bước ra cúng dường xong thì quý Sư bước đi chầm chậm nơi khác… và cứ như thế? Nơi nào có thờ ngài Bồ tát Ðịa Tạng thì có thờ cây tích trượng trong tay ngài Ðịa Tạng, xin Sư từ bi giảng giải cho chúng con thọ học về ý nghĩa cây tích trượng của nhà Phật?

Ðáp: - Chiếc gậy của các bậc Sa môn, đạo nhân, trưởng lão cao niên, đức độ dùng để chống đỡ lúc bước đến những nơi có đường sá khó khăn, như: leo núi, đường gồ ghề, quanh co khúc khuỷu…
Chống gậy nhìn đời ôi huyên náo

Quên đi một giấc mộng nam kha?

(Giác Quang thi tập)

Trong Ðạo Phật, tích trượng chỉ là cây gậy thông thường, là cây gậy của vị Tỳ kheo bên Thiên Trước, hay xứ Trung Hoa; ngày xưa chư vị Tỳ kheo lớn tuổi thường có sắm cây gậy riêng để chống chỏi lúc đi đường hay lên núi học đạo. Gậy xưa hay nay cũng gọi là tích trượng, nhưng ngày nay ở Việt Nam khi nói đến tích trượng thì chỉ quan trọng để dùng cho quý Hòa Thượng sử dụng đi thuyết pháp, trì bình khất thực, phụng thờ trước bàn Tổ sư, hoặc dùng làm Phật sự “dẩn vong” trong các lễ tang, hoặc giả là cung nghinh Ðại Hòa Thượng, Ðại lão Hòa Thượng mà thôi.

Theo triết lý của Tịnh độ Non bồng có câu:”…yếu chơn mượn gậy của A Di…”, tức là những bước đi trầm thống trong cõi sanh tử luân hồi của chúng sanh thật lắm yếu đuối, ngày nay giác ngộ phát tâm niệm Phật nương câu danh hiệu Phật A Di Ðà (gậy A Di) mà giữ chánh niệm, để vượt qua biển khổ trầm thống mà về cố quán.

Tên gọi là Khí đa la, Khiết khí la, cũng gọi Thanh trượng, Hữu thanh trượng, Trí trượng, Ðức trượng, Minh trượng, Kim tích…

Chỉ là chiếc gậy thô sơ mà vị Tỳ kheo mang theo khi đi đường. Vốn là vật để dùng xua đuổi rắn rít độc, trùng độc, hoặc rung lên khi đi khất thực, khiến cho thí chủ nghe biết. Ðời sau tích trượng trở thành một trong các pháp khí thiền lâm.

Sách đại Tỳ kheo Tam thiên Oai nghi quyển Hạ có nêu ba nguyên nhân phải cầm tích trượng: một để xua đuổi trùng, rắn; hai là vì tuổi già; ba là lúc đi khất thực.

Khi cầm tích trượng có hai mươi lăm việc hạn chế như khi gặp tượng Phật, không được để đầu tích trượng phát ra tiến kêu “leng leng”, cho đến không được dùng tích trượng để chỉ vào người khác, vẽ viết dưới đất.

Tích trượng gồm có ba phần: phần thứ nhất là “tích”, phần thứ hai là”cán gổ”, phần thứ ba là”thuần” (tức là phần được bịt đồng ở trên đầu cán gổ). Tích là đầu gậy, hình tháp có gắn vòng lớn, trên đó treo nhiều vòng nhỏ,khi rung phát ra tiếng “leng leng”, nên tích trượng cò gọi là Thanh trượng.

Vị Tỳ kheo cầm tích trượng du hóa khắp nơi, gọi là Phi trượng, Tuân trượng. Dựng trụ ở một nơi nào thì gọi là Lưu tích, Quải tích.

Tông Thiên Thai và tông Chân ngôn ở nhật Bản, khi có Pháp hội thì dùng tích trượng cán ngắn, rung lên để xướng Phạn bái vì thế Phạn bái cũng gọi là tích trượng, là một trong bốn pháp yếu. Tích trượng (Phạn bái) có hai lọai: là chín điều và ba điều khác nhau. Tích trượng chín điều có chín tiết tán tụng còn gọi là Trường tích trượng. Tích trượng ba điều thì tụng hai điều: đầu tiên và một điều sau cuối, trong chín điều tán tụng (Luật thập tụng, Căn bản tát bà la Bộ luật nhiếp 10, Sắc tu bách trượng Thanh quy).

Quyển luật Sa di và Sa di ni, bản dịch Hòa Thượng Thích Trí Quang năm 1973, trang 991, 992 có bài Xuất tích trượng (lấy tích trượng), hay cầm tích trượng.

Chấp trì tích trượng

Ðương nguyện chúng sanh

Thiết đại thí hội

Thi như thật đạo

Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật thế, na dạ bát nãnh hồng phấn tra.

Nghĩa:

Tay cầm tích trượng

Nên nguyện chúng sanh

Thiết hội đại thí

Chí đạo như thật

Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật thế, na dạ bát nãnh hồng phấn tra.

Ngày nay trong các lễ tang lớn nhỏ, trường hợp tang chủ có thỉnh chư Trưởng lão Hòa Thượng chứng minh, Hòa Thượng sám chủ thuyết minh sanh, đề phang (nói lại lịch sử, lai lịch của người đã qui tây), tống táng đưa linh, quý Ngài có sử dụng tích trượng để “dẫn vong” trứoc khi động quan. Ðây là thuộc pháp sự đạo tràng, rất có ý nghĩa cao quý trong ngành Nghi lễ Phật giáo; đồng thời cũng giúp cho tang chủ có niềm tin Phật pháp mà vào đạo, quy y Tam bảo (nếu gia đình đó chưa quy y). Hình ảnh vị sám chủ cầm tích trượng “dẫn vong” tiếp dẫn vong hồn siêu sanh lạc quốc, khiến trở thành truyền thống “xã hội tiến bộ không thể thiếu vắng Phật giáo” và nói gì thì nói, nhưng “Phật giáo rất gần gũi với xã hội xưa cũng như nay…”.

Trong những năm còn đi học ở Saigon, khi nào rỗi rảnh chúng tôi vẫn có đi khất thực trên các đường phố của Saigon xưa, thỉnh thoảng gặp quý Ngài Du tăng Khất sĩ của phái Ðại sư Huệ Nhựt, Hòa Thượng Thích Phổ Thượng, Tăng chủ chùa Linh Quang hướng dẫn chư Tăng đi khất thực; khi đến trước nhà của tín chủ, Hòa thượng Trưởng đòan dộng tích trượng kêu “leng keng” ba lần, trường hợp nầy nếu có tín chủ ở nhà thì chuẩn bị thức ăn tinh khiết ra quý lạy rồi hiến cúng dường trai phạn, trường hợp không có tín chủ, hoặc người trong nhà không phát tâm cúng dường, thì chỉ trong vòng ba phút đòan Du tăng lần lượt nhẹ nhàng bước đi nơi khác.
Việc khất thực trên là hình ảnh đẹp, hình ảnh văn hóa của Phật giáo được truyền đạt đi khắp nhân gian. Khất thực là phận sự của Ðức Phật, của ba đời chư Phật, phận sự của chư Tăng già, mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ phải đi trì bình khất thực tức là làm việc Phật, nối gót Ðức như Lai, xiển dương truyền thốnng tu hành trong Tăng đòan Ðức Phật trong thời Ngài sinh tiền cũng như hôm nay.

Ngày nay chư Tăng Ni không còn đi Khất thực nữa, lý do để Giáo Hội Phật giáo Việt nam các cấp “thanh lọc” những “nhà sư giả”, từng làm nhức nhối các Tăng đòan Ðạo Phật Tăng già Khất sĩ, Khất sĩ Tịnh độ Non bồng, Khất sĩ Ðại sư Huệ Nhựt, cũng như Tăng đoàn Phật giáo Nam tông Việt nam.

Tuy nhiên, nếu chư Tăng Ni không còn đi khất thực nữa (không có luật nào cấm Phật sự đi khất thực, chỉ có những văn bản nhất thời của Giáo Hội PGVN thanh lọc những người giả dạng nhà sư đi trì bình khất thực mà thôi) cũng là làm mất mát đi một phần giáo pháp Ðức Phật để lại trong đời..! Chỉ có pháp môn khất thực là đủ yếu tố mang lại sự bình đẳng giữa con người và con người trong cuộc sống và đó là hạnh Phật trong nhiều hạnh lành của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni cách đây trên 2.500 năm.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

60. NGÀY THỨ SÁU MƯƠI:

Chuông
Vấn: - Hầu hết các chùa Phật giáo ở Trung quốc, Hàn quốc, Nhật bản và Việt nam, những chùa thuộc hệ thống Bắc truyền, các môn phong pháp phái Cổ truyền, Thống nhất, cũng như các chùa Phật giáo Việt nam và các chùa trong Liên tông tịnh độ Non bồng đều có tôn trí và sử dụng một số dụng cụ nhà Phật, gọi là pháp khí như chuông, mõ, trống, bảng, kiền chùy, kiển…được dùng để trang nghiêm đạo tràng, hoặc thêm phần sắc thái lễ nhạc trong lúc tụng kinh, lễ sám, thuyết pháp…những lọai nầy xuất hiện từ hồi nào? Nhằm mục đích gì? Xin Sư giảng giải cho chúng con được thọ học?

Ðáp: - Làm Nhà sư xuất gia hay cư sĩ tại gia, nói chung người tu Phật không ai có thề nói không hiểu biết ít nhiều gì về chuông, trống, mõ trong chốn thiền môn. Những nhà tu thiền, học phái Khất sĩ tuy không sử dụng âm thinh sắc tướng, trống phách, mõ chuông, nhưng không thể nói là không hiểu biết gì về chuông trống mõ là dụng cụ pháp khí có từ ngàn xưa. Làm Nhà du Tăng Khất sĩ, du Tăng hóa đạo, thuyết pháp giảng kinh, tế Tăng độ chúng, ở tịnh xá không bao giờ có những pháp cụ nầy, nhưng cũng không xa rời sự hiểu biết về chuông, trống, mõ và một đôi khi vẫn có sử dụng, trong một số nghi lễ phổ thông…

Pháp khí có nhiều loại: loại để trang nghiêm, loại để cúng Phật, loại để báo thời. Khí cụ dùng để báo thời gian trong tự viện gọi là kiền chùy. Theo các bản Kinh, Luật (Hán tạng) đã được dịch, kiền chùy là từ chỉ chung cho các loại: chuông, trống...

Chuông:
* Chuông được phát hiện tại Trường An (khoảng 1000 năm trước tây lịch, thời Châu Chiêu Vương) thuộc loại sớm nhất tại Trung Quốc. Phật giáo Trung Hoa đã đưa chuông vào các tự viện lúc nào, hiện nay chưa tìm ra tài liệu khẳng định. Tuy nhiên, để tạm truy nguyên nguồn gốc của chúng có thể dựa vào một số tài liệu. Cuốn Quảng Hoằng Minh tập trong Ðại Chánh tân tu Ðại Tạng kinh ghi rằng vào đời Lục Triều (420-479) đã có nhiều lầu chuông. Năm Thiên Hòa thứ năm (566) đời Bắc Châu, bài Nhị giáo chung minh được khắc trên ba đại hồng chung lớn nhất thời bấy giờ. Hai trong ba cái này được đúc vào năm 579 và 665 tây lịch. Tục cao tăng truyện ghi năm thứ năm đời Tùy Ðại Nghiệp (609), ngài Trí Hưng nhận lo việc chuông tại chùa Thiền Ðịnh ở kinh đô Trường An. Trong khoảng thời gian này trở về sau, Bắc Châu không ngừng đúc hồng chung để an trí trong các tự viện.

* Thời xưa có hai loại chuông được sử dụng trong các Tự Viện:

* Phạn chung (chuông phạn): cũng gọi là "đại chung", "hồng chung", "hoa chung" hoặc "cự chung". Chuông này được đúc bằng đồng xanh pha ít sắt. Thông thường chuông cao khoảng 1.5m, đường kính khoảng sáu tấc. Loại này treo trong lầu

* Chuông, mục đích thỉnh chuông là để chiêu tập đại chúng hoặc báo thời sớm tối. Người Việt nam thường dùng từ "đại hồng chung" chỉ cho loại chuông thật to, gần như không còn có quy định cụ thể là lớn nhỏ bao nhiêu nữa. Chuông này còn gọi là chuông U minh.

Kệ khai chung:

Bài 1:

Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới

Thiết vi u ám tất giai văn

Văn trần thanh tịnh chứng viên thông

Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác

Văn cung thinh phiền não khinh

Trí huệ trưởng bồ đề sanh

Ly địa ngục xuất hỏa khanh

Nguyện thành Phật độ chúng sanh

An Dà Ra Ðế Dạ Ta Bà Ha

(Kinh Tam Bảo – Hồng Tại Ðoàn Trung Còn)

Bài 2:

Hồng chung vang vọng tiến ban đầu

Ðịa ngục A tỳ thăm thẳm sâu

Thiên đường hữu đảnh ngân vang khắp

Trước Phật mười phương con cúi đầu

Cha Mẹ sanh thành Thầy bạn tốt

Quốc dân thủy thổ dám quên đâu

Thú cằm thoát khỏi tay săn bắn

Ðịa Tạng Quan Âm con nguyện cầu

Ân oán nhiều đời tợ biển sâu

Lẽ đạo huyền vi rất nhiệm mầu

Tẩy sạch long trần lên giải thoát

Nghe chuông nhớ Phật hết u sầu

Nam mô Ðịnh tâm vương Bồ tát ma ha tát

An dà ra đế dạ ta bà ha

Kệ thu chung:

Bài 1:

Chuông chùa vang vọng khắp muôn nơi

Cảng tĩnh trần ai giấc mộng đời

Sức kiệt hơi tàn buông tất cả

Nhớ câu niệm Phật thoát luân hồi

Bài 2:

Nghe chuông thức tĩnh giấc ta bà

Danh lợi buộc ràng nguyện thoát ra

Nếu mất thân người thôi khó gặp

Cần lo giải thoát niệm Di đà

Bài 3:

Nghe chuông phiền não tận tiêu tan

Giác tánh mở mang trí huệ tràn

Ðịa ngục xa lìa ham lữa khỏi

Nguyện thành Phật đạo độ trần gian

(HT Thích Trí Quảng)

Bán chung (chuông nhỏ):

Vì chiều kích chỉ lớn bằng một phần hai chuông phạn, nên gọi là bán chung, còn được gọi là "tiểu chung". Chuông này thường được đúc bằng đồng, cao khoảng 6 đến 8 tấc, thường để tại một góc trong chánh điện và được sử dụng trong các buổi pháp hội, nên còn có tên khác là "hành lễ chung". Người Việt Nam cũng như các nước khác ngày nay linh động chế tạo nhiều loại chuông dạng "bán chung" này, nhưng cũng không có kích thước cố định.

Ngoài ra, trong thời cực thịnh của Thiền tông, chuông an trí tại Thiền đường, gọi là "chuông Tăng đường", "chuông trai"; chuông để tại chánh điện gọi là "chuông điện"... Những vị lo việc chuông này gọi là "chung đầu".

Về thỉnh chuông, xưa ở Trung Quốc tùy mỗi tông phái, từng địa phương mà quy định có khác nhau, nhưng tổng quát khi bắt đầu thỉnh ba tiếng và kết thúc đánh nhanh hai tiếng hoặc ba hồi chín tiếng cho các loại chuông nhỏ khi tụng kinh. Số lượng tiếng thường là 18; cũng có khi thỉnh ba mươi sáu tiếng, một trăm linh tám tiếng. Thỉnh một trăm linh tám tiếng biểu thị hành giả nỗ lực làm vơi cạn đi một trăm linh tám phiền não nơi nội tâm. Mười tám tiếng là biểu thị sự thanh lọc sáu căn, sáu trần và sáu thức.

Dộng chuông:

Tiếng ra gọi là “dộng”, do người ta làm “chuông” là rỗng không, trong không chứa nhiều hơi, nên tiếng to… Trong Tỳ Ni Hương Nhũ ghi: "Sách Lễ khảo ký nói họ Phù làm chuông - sách Ngũ kinh thông nghĩa nói: chuông là tiếng mùa thu, vạn vật đến mùa thu mà thành, mùa đông mà ẩn, nên đúc vàng làm chuông, nối mãi chẳng diệt vậy".

Sách Tây kinh ký nói: "lấy cá Kình khua chuông Hoa", nghĩa như vầy: trong biển lớn có cá to, nên gọi là Kình, hòn đảo giữa biển có con thú ký dị tên là Bồ Lao, tiếng kêu rất to. Dựa theo thuyết nay mà đúc chuông (đại hồng chung). Nên làm chuông muốn tiếng chuông ngân vang xa, thì phải làm con Bồ Lao ở trên (quay chuông), dùi chuông dộng vào chuông thì chạm trổ hình cá Kình vậy.

Truyện Thông tải nói: Ðức Phật Câu Lưu Tôn, nơi Thư viện Kiền Trúc, có làm cái chuông bằng đá xanh, khi mặt trời mọc có các vị hóa Phật, cùng mặt trời hiện ra diễn thuyết 12 bộ kinh, người nghe pháp chứng Thánh không thể nói heat. Cho nên sớm tối người phát tâm dộng chuông là có cái công nhắc nhở người khác siêng tu hành.

Người dộng chuông, trước phải trì niệm đề tựa kinh hoa Nghiêm, tiếp niệm bài kệ:

Nhược nhơn dục liễu tri tam thế nhứt thiết Phật

Ưng quán pháp giới tánh nhứt thiết duy tâm tạo

An dà ra đế dạ ta bà ha.

Người dộng chuông vừa đọc vừa dộng chuông đệm theo tiếng niệm câu kinh trên, thành ba mươi lăm tiếng chuông, tức là một đoạn: "một đoạn nhặt, một đoạn huỡn làm thành một hồi (35 tiếng)"; ba hồi cộng lại thành một trăm linh năm tiếng chuông, sau cuối dộng thêm ba tiếng, tổng cộng thành một trăm linh tám tiếng chuông.

Sở dĩ như vậy là do pháp sự,nương lý mà hiển bài, nên sự hay hiển lý. Do đó mà một trăm linh tám phần vô minh mê muội của chúng sanh được tĩnh thức thành một trăm linh tám phần tam muội.
Sách Phật Tỳ Ni Hương Nhũ, bản dịch Ðại Ðức Thích Thiện Chơn có bài kệ:

"Bảy tiếng huỡn đầu, tám nhặt sau

Trung gian hai mươi phải đều đều

Ba hồi vừa dứt thêm ba tiếng,

Chư Phật Long thiên chú ý vào".

Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: "Nếu khi dộng chuông, nên nguyện trong tất cả các đường dữ, khổ hình đều dứt. Nếu nghe tiếng chuông mà nói kệ khen, được trừ tội nặng trong năm trăm ức kiếp sanh tử, huống chi là phát tâm dộng chuông niệm Phật, niệm chú vãng sanh".

Tổ sư Bách Trượng dạy: "Tòng lâm dộng chuông, dộng buổi sớm là phá hôn trầm đêm dài vô tận; dộng buổi tối là nhổ tối khổ u minh. Dang chày cho huỡn, kéo tiếng cho dài”

Xưa Hòa Thượng Chí Công giúp Lương Võ Ðế thấy tướng địa ngục, Võ Ðế hỏi, lấy chi dứt được? – Hòa Thượng Chí Công dạy: nghe dộng chuông, thì khổ ấy tạm dứt, Võ Ðế liền hạ chiếu Chùa Am trong thiên hạ, phàm dộng chuông, phải dộng cho thật chậm rãi, để tâm thần tĩnh thức và mọi người cũng thức tĩnh theo. Chỉ có nghe tiếng chuông mà dứt khổ, huống chi chúng ta phát tâm dộng chuông.

Nghe chuông:

Nhĩ căn phát thức là nghe. Phàm nghe tiếng chuông thầm niệm bài kệ. Thầm niệm là tiếng trong tâm. Tâm có tiếng hay tâm không tiếng?

Tiếng mà không tiếng, chỉ có thể tự mình nghe được, người khác không nghe được. Nên trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật dạy: "Trở lại nghe nghe tự tánh, sao chẳng tự nghe nghe" là nói tiếng trong tâm vậy.

Nghe tiếng chuông phiền não nhẹ

Trí huệ lớn, bồ đề sanh

Lìa địa ngục, ra hầm lửa

Nguyện thành Phật độ chúng sanh

An dà ra đế dạ ta bà ha. (7 lần)

Phiền não có hai thứ: căn bản phiền não và tùy phiền não. Làm tâm quấy rầy, khiến tâm bối rối. Nên trong Bộ chỉ quán nói: "Pháp mù rối, khuấy loạn tâm thần” vậy. Nếu nghe tiếng chuông mà trì kệ chú nầy, dù có phiền não rất nặng, cũng hóa ra nhẹ thanh đi. Xét lý gọi là trí, phân biệt gọi là huệ, tức hai trí: căn bổn trí và hậu đắc trí. Như Quán Thế Âm từ nghe, nghĩ, tu (văn, tư, tu) mà vào chánh định, tự nhiên phiền não nhẹ, trí huệ lớn vậy. Bồ đề là quả của trí, một lần nghe tiếng chuông, hoa long trí huệ rộng nở, quả đạo Bồ đề mau nên. Nay là nói vắng lặng hiện bày, bồ đề tự sinh vậy.

Nói địa ngục nghĩa là ở dưới đất. Tiếng Phạm gọi nê-lê, dịch là khổ cụ, cũng dịch là khổ khí, cũng dịch là không thể ưa muốn, nghĩa là ngày đêm nung bức người tội.

Lại địa là đáy, trong muôn vật thì đất ở dưới rốt, nên gọi đáy, ngục là cuộc, là giam buộc người tội không được an vui, nên gọi cuộc. Lại có nghĩa là không có, nghĩa là trong ngục không có lợi ích chi cả. Như trong luận Tỳ Bà Sa nói: chỗ không tự tại. Nghĩa là người tội ấy bị ngục tốt A bàng câu chế, không được tự tại. Dưới châu Nam Thiện Bộ cách năm trăm do tuần thì có ngục ấy. Nay nghe tiếng chuông nếu vượt thoát được đời ra khỏi đời, thì tự nhiên lìa địa ngục, ra khỏi ham lửa vậy.

Mười phương tròn sáng, gọi là thành Phật, được hai món thù thắng nên có thể độ chúng sanh. Nếu một khi nghe tiếng chuông mà liền sanh chánh niệm, cho nên phiền não nhẹ ít, mà trí huệ thêm lớn, tức là chuyển chướng mê lầm thành thiện tri thức, nên gọi là Bồ đề sanh.

Lìa là giải, ra là thoát. Tức là chuyển khổ chướng của địa ngục ham lữa mà thành đức giải thoát, nên gọi là: "lìa ra". Phát nguyện thành Phật tức là chuyển nghiệp chướng mà thành đức pháp thân.

Xưa nay chưa có người nào chẳng phát nguyện độ chúng sanh. Cũng chưa có Ðức Phật nào chẳng phát nguyện độ chúng sanh. Nếu chúng sanh không tự độ, mà trước nguyện độ sanh, tâm ấy là tâm Phật, phải biết tâm và nguyện ấy, đều từ chỗ nghe tiếng chuông mà phát khởi, một lúc vô biên phiền não từ đó cắt đứt.

Kệ chú nghe chuông hiển mật lẫn dùng, lý sự đều bày cả. Chú tức là chân ngôn phá địa ngục, bí mật nên không dịch. Tự nhiên tụng niệm thì tự khiến heat khổ được vui, dứt tội chứng quả vậy.
Nghe chuông nằm chẳng dậy, thiện thần hộ pháp giận, đương đời kém phước đức, sau đọa làm thân rắn. Người đời lười biếng tu tập thiền tụng, cảm báo rõ ràng như trong Ðại luật đã dạy như vậy.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

61. NGÀY THỨ SÁU MƯƠI MỐT:

Trống
Trống là một trong những loại nhạc khí, thường làm bằng đất đá, cây, đồng. Tài liệu văn học liên quan đến "trống" ở Trung Quốc rất phong phú. Theo sách Lễ ký phần Minh đường, từ năm 2300 năm trước tây lịch về trước, nước họ đã có loại trống do cỏ kết lại thành. Trung Quốc thời xưa dùng trống trong các dịp lễ lộc, vũ hội... Loại hình có to, nhỏ, treo hoặc để trên giá... Trống to gọi là trống tẩu, nhỏ gọi là trống ứng, treo để đánh gọi là trống treo... Trong đó, một số loại chính do các bậc hiền triết sáng tạo ra, còn số nữa do từ Tây Vức truyền đến. Trong tự viện, trống cùng với chuông được đặt ở hai bên chánh điện theo vị trí "tả chung hữu cổ".

Trong Phật giáo, kinh Lăng Nghiêm ghi lại thuở Ðức Phật còn tại thế, trống được dùng để báo hiệu giờ cơm (thực biện kích cổ), bố tát. Luật Ngũ Phần nói chư Tỳ kheo đến lúc tụng giới nhưng tập họp không đúng giờ, Ðức Phật dạy nên đánh kiền chùy, đánh trống v.v... với mục đích chính là không ngoài việc tập họp chúng Tăng. Từ đời Ðường về sau, theo thanh quy của thiền môn, trống là một trong những loại pháp khí dùng làm hiệu lệnh báo thời sớm khuya, tối đến. Sau này Phật giáo Trung Quốc tiến thêm bước nữa phối hợp nhịp điệu, âm thanh tiếng trống hòa cùng những lời tán tụng, phổ thành khúc điệu, biểu hiện "kỹ nhạc cúng dường, trang nghiêm đạo tràng", dùng âm thanh làm Phật sự, trợ giúp đại chúng phát tâm thành kính đối với Tam bảo.

Kệ khai trống (HT Thích Trí Quảng)

Bài 1:

Pháp cổ minh thời Ngọc Kệ tuyên

Hạ thông địa phủ thượng chư Thiên

Văn thanh đồng niệm Di Ðà hiệu

Ngộ tánh chơn thường lạc vô biên

Nam Mô Oai Âm Vương Bồ Tát Ma Ha Tát

Bài 2:

Pháp luân thường chuyển huệ tâm khai

Các đoạn tử sanh tọa liên đài

Ngã kim đảnh lễ y vương vị

Thân tâm thanh tịnh kiến Như Lai

Nam mô Chuyển Luân Vương Bồ Tát Ma Ha Tát

Bài 3:

Ðại cổ thường minh diệu pháp tuyên

Tứ sanh lục đạo diệt ưu phiềnBạch liên dũng xuất ư trần thế

Liễu ngộ Pháp Hoa chứng đạo thiền

Nam mô Pháp hoa Hội thượng Phật Bồ tát Ma tát

Bài 4: (Long Sơn Cổ Tự – Tân Ba)

Cổ thinh hướng xứ biến hà sa,

Thiên long bát bộ tiếu a a.

Tam luân cửu chuyển sanh tử đoạn

Khổ hải chi trung xuất ái hà

Nam mô Cổ Lôi Âm Vương Bồ Tát ma ha tát

Bài 5: (Ðức Tôn Sư HT thượng Thiện hạ Phước)

Trống bát nhã tiền đồ phóng xả

Ðiểm điểm thất tinh như càn long mã

Hổn độn sơ khai Ðẩu xuất tam cung

Lấy bát quái lập làm tứ trụ

An dà ra đế, dạ ta bà ha

Bài 6: (HT Giác Quang sưu tầm)

Bát nhã trống khai hướng Phật tiền

Thượng thông hạ triệt lạc vô biên

Lục đạo chúng sanh mau thoát khổ

Cửu ưu thập loại xuất khanh nhiên.

Bài 7: (HT Giác Quang sưu tầm)

Trống vang bủa đức kiết tường

Mười phương tụ hội cúng dường Như Lai

Trí minh bát nhã liên đài

Phá tan u ám Như Lai hiện tiền

Nam mô Cổ Lôi Âm vương Bồ tát ma ha tát

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

62. NGÀY THỨ SÁU MƯƠI HAI:

Mõ gia trì

Mõ có 2 loại:

1/Loại hình con cá thẳng dài treo ở nhà kho, nhà ăn đến lúc dùng cơm cháo gõ nó để báo hiệu.
2/ Loại hình con cá có vảy cuộn tròn, khi tụng kinh thì đại chúng Tăng Ni gõ lên mình nó.
Theo sách Tham Thiên đài Ngũ Ðài Sơn ký (quyển 3, Tống Thần Tông Hy Ninh năm thứ 5 ngày mồng 8 tháng 8) ghi: Trong chùa Thanh Thái có thờ tượng ngài Phó Ðại sĩ, vị Trưởng lão viện chủ đánh mõ chiêu tập các vị tu hành, vị ấy chính là ngài Phó Ðại sĩ... Thời đó, ngài muốn gặp các vị tu đầu đà nơi cao sơn, chỉ gõ mõ, chư vị nghe xong tiếng mõ ấy liền đến. Sau đó, các tự viện lớn nhỏ dưới chân núi đều dùng mõ để tập hợp đại chúng. Lại có người cho rằng mõ là do Sa môn Chí Lâm đời Ðường tạo ra, nhưng do sự hạn chế của sử liệu chứng minh, điều này khó thuyết phục mọi người. ngoài ra, sách Tăng tu giáo uyển thanh quy (quyển hạ, phần Pháp khí) ghi lại truyền thuyết rằng có một vị Tăng do phản thầy, hủy pháp mà bị đọa làm thân con cá, trên lưng nó lại mọc một cái cây, mỗi khi sóng gió thổi đến, khiến thân ra máu, thật thống khổ vô cùng. Một lần nọ, thầy bổn sư qua biển, nhân đó nó muốn gây nợ liền nói rằng thầy không dạy để nó phải mang chịu làm thân cá thế này, do đó nên nay nó muốn báo oán. Thầy hỏi nó tên gì, liền được trả lời tên là Mỗ Giáp… Thế rồi, Thầy bảo sám hối cùng vì nó bạt độ. Ngay đêm ấy nó thoát thân cá, đồng thời đem cây ấy bỏ trong chùa, Thầy lấy đẽo thành hình con cá và treo lên để cảnh thức đại chúng.

Loại mõ tròn mà ngày nay dùng có thể là sản vật có từ đời Minh (Trung Quốc). Theo sách Tam tài đồ hội của tác giả Vương Tích đời Minh có đoạn: "Mõ là loại mà dùng cây khắc thành hình con cá, rỗng bên trong, gõ sẽ phát ra tiếng, các hàng Phật tử khi tán tụng đều dùng đến nó". Theo sách Thích thị yếu lãm, chuông, khánh, bản đá, bản gỗ, mõ, cái thớt đều có khả năng phát ra âm thanh một khi gõ vào và nhờ đó mà đại chúng được tập hợp, nên các loại đó đều gọi là kiền chùy. Sách Sắc tu Bách Trượng thanh quy chương Pháp khí nói khi dùng cơm, khi phổ thỉnh Tăng chúng... đều gõ nó. Từ đây có thể hiểu lúc đầu mõ dài được dùng để tập họp Tăng chúng. Nhưng vì sao cả hai loại mõ đều lấy hình dáng con cá? Sách Sắc tu Bách Trượng thanh quy nói rằng tương truyền loài cá suốt ngày đêm đều tỉnh, nên khắc hình con cá để mỗi khi gõ vào nó nhắc nhở mình tỉnh thức, chớ có hôn trầm, giải đãi. Lại nữa, tiếng mõ với mục đích chính là giữ trường canh cho đại chúng lúc tụng kinh được nhịp nhàng.

Bài khai mõ nhỏ:

Mộc ngư cao hứng đả tam thinh

Văn pháp Như Lai hộ hộ kinh

Tam chuyển động am thông tam giới

Quán bất quán bồ đề tối thượng tâm

An Yết Ðế, Yết Ðế Ta Bà Ha

Bài khai mõ lớn:

Gia trì mật niệm tẩy trần tâm

Một ngư khuyết hướng chuyển tam luân

Thánh chúng lục hòa kim bối diệp

Tứ sanh cửu hữu tận triêm ân

Án Phạ Nhựt Ra Da, Tá Ha (Kinh Nhựt tụng – niệm Phật)

Vài ý tưởng khác:

Thời xưa, không những Trung Quốc mà Ấn Ðộ và một số nước khác cũng đã sử dụng chuông, trống... Tại Ấn Ðộ dùng chuông, trống để báo thời gian, cảnh báo. Khi Ðức Phật còn tại thế, dùng nó để tập hợp chúng Tăng bố tát, nghe pháp... Do đó luật Ngũ Phần ghi: "Chư Tỳ kheo bố tát, chúng bất thời tập, Phật ngôn: nhược đả kiền chùy, nhược đả cổ...". Chuông treo lơ lửng tượng trưng cho sự huyền bí của trời đất. Ấn Ðộ đã biết sử dụng chuông trên hai ngàn năm về trước. Có lẽ chuông được sử dụng rộng rãi trong cung đình, đặc biệt trong các chùa chiền. Các hình thức nghệ thuật như điêu khắc chùm chuông xuất hiện vào thời kỳ đầu của Phật giáo được tìm thấy trên các bức phù điêu tại các trụ đá của vua A Dục và các tháp tôn trí xá lợi Ðức Phật. Không riêng tại Ấn Ðộ mà ngay cả các nước lân cận chịu ảnh hưởng lớn từ nền văn hóa Ấn Ðộ như Tích lan, Miến điện, Thái lan cũng sử dụng chuông và sau này cả trống nữa, để biểu hiện lòng thành của người cầu nguyện, đặc biệt dùng khi chấm dứt một khóa lễ.

Trong các dịp tưởng niệm Ðức Phật, các chuông được sử dụng với một số nhạc khí khác như trống, sáo để biểu hiện lòng tôn kính Ðức Phật. Tác phẩm Saddharmlankra (một tác phẩm văn học tôn giáo thời trung đại của người Sri Lanka) ghi rằng: chuông được sử dụng đầu tiên ở Sri Lanka vào những dịp đặc biệt như triệu tập Tăng chúng. Sau này dần dần nó trở thành một phần của nghi lễ cúng dường Ðức Phật.

Tín đồ Phật Giáo Tây Tạng tin rằng khi họ niệm chú, nhờ sức quay chuông của họ mà các câu thần chú sẽ đi muôn nơi vạn hướng, làm vơi bớt nỗi khổ đau của cuộc đời. Cho nên Phật giáo Tây Tạng chế nhiều cỡ chuông cầm tay cho tín đồ trì niệm và cả chuông lăn lớn để tín đồ quay.
Dĩ nhiên, các loại chuông trống ở Ấn Ðộ thuở ban đầu không giống với các loại chuông trống ngày nay ở Trung Quốc hay Việt Nam. Trung Quốc thuở xưa, trống chỉ được sử dụng để thúc quân ra trận. Chuông (một hình thức của chiêng) được sử dụng như dấu hiệu của rút quân. Trống phần lớn cũng để triệu tập ba quân tướng sĩ hoặc kêu oan ở cửa quan. Loại trống này được sử dụng rộng rãi về sau trong giới quan lại để hành quyết tội nhân ở pháp đường.

Chốn thiền môn thường có câu:

"Chuông thức tĩnh đưa người về bến giác,

Mõ giác lòng thôi bỏ mộng nam kha".

Chuông trống từ thời xưa đã được dùng trong lễ hội cung đình và giữ vai trò trọng yếu trong âm nhạc. Qua đây, nó là một trong những loại công cụ nhạc khí dùng để diễn đạt, giao lưu tư tưởng, tình cảm, dùng trong chiến đấu, cúng tế, trong lĩnh vực tôn giáo v.v... Chuông, trống được đưa vào PG từ khi Ðức Phật còn sanh tiền với mục đích tập hợp chúng Tăng. Về sau, chuông, trống, mõ được dùng trong các nghi lễ để trang nghiêm đạo tràng, làm hiệu lệnh báo thời sớm tối. Sau đó, tiến thêm bước nữa, phối hợp tiếng chuông, trống, mõ, hòa cùng những lời tán tụng để trợ giúp đại chúng trong việc tu học, làm Phật sự lợi lạc quần sanh, hướng họ đến bến bờ giác ngộ

Chuông, trống mõ, kiền chùy… là pháp khí nhà Phật (nghi lễ của nhà Phật), cũng là pháp khí Phật sự không thể thiếu trong chốn thiền môn. Làm Tăng Ni, không ai có thể không biết các Phật sự trên, một đời tu hành và làm Phật sự mà không biết ý nghĩa pháp khí ấy thì thật là mất nhân duyên Phật Pháp. Vì các pháp khí đó luôn luôn gần gũi với chúng ta. Chư Tăng Ni Liên Tông Tịnh Ðộ Non Bồng cần học hỏi để vừa hiểu biết, vừa để dành sự hiểu biết đó mà sử dụng và truyền đạt cho mọi người sau chúng ta trong tương lai.

Bài khai chuỗi tràng (108 hột):

Âm:
Thủ trì nhứt bá bát

Diệt tội đẳng hà sa

Viễn ly tam đồ khổ

Xuất sắc biến liên hoa

Nghĩa:
Tay cầm trăm tám bồ đề

Tiêu mòn các tội đặng về Tây phương

Khỏi nơi chốn khổ ba đường

Thoát ra liền thấy bửu tòa liên hoa.

An Phệ Lô Giá Na, Ma Lạ, Ma Lạ, Ta Bà Ha (đọc 7 lần)

Bài khai chuỗi (18 hột)

Bài 1:

Diệu quả bồ đề ly chưởng chưởng

Thủ khai thiên tỏa vạn trùng trùng

Thập bát chuyển luân Lá Hán tướng

Thiên quan giáng phước hiện vô cùng

Nam Mô Ðịnh Tâm Vương Bồ Tát Ma Ha Hát

Bài 2:

Vận chuyển càn khôn tóm một xâu

Ba ngàn thế giới trọn tay thâu

Bồ đề mười tám thiền tâm định

Sáu chữ Di Ðà báu tợ châu

Nam Mô Ðịnh Tâm Vương Bồ Tát Ma Ha Hát

Bài 3:

Cúi đầu đảnh lễ Phật phương Tây

Ðạo sư tiếp dẫn chúng sanh nầy

Con nay phát nguyện về Lạc quốc

Xin Phật thương con độ vãng sanh

Nam mô tây phương cực lạc thế giới đại từ Ðại bi đại nguyện đại lực tiếp dẫn đạo sư A Di đà Phật. (Kinh Nhựt Tụng Thích Thiện Huê)

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

» Ảnh đẹp
» Liên kết website
Search
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch