Trong việc học hỏi Phật Pháp, điều căn bản cần phải biết các đặc tánh
của tâm và pháp như thế nào mới có thể tìm hiểu thêm pháp học và pháp
hành Phật đạo. Kinh Giáo Giới Nandaka và Kinh Giáo Giới Channa đã nói
lên hai đặc tánh ấy. The lời Phật đã giảng dạy, tôn giả Nandaka thay
phiên giáo giới Tỳ-kheo-ni về tâm vô thường. Tôn giả Channa bị bệnh đau
khổ, Tôn giả Sariputta (Xá lợi phất) cùng với tôn giả Mahacunda đến hỏi
thăm bệnh trạng và giáo giới cho tôn giả Channa.
A. Kinh Giáo Giới Nandaka
a) Đặc Tánh của Tâm: Vô Thường.
Cái
Tâm là dòng tâm thức lưu chuyển từ đời nầy sang đời khác. Nó không có
khởi đầu cũng không có chấm dứt vì sự nhận thức không đến từ sự bất
động hay không có nguyên nhân. Như vậy, đãc tánh của tâm và vô thường,
biến hoại và hay thay đổi.
Kinh Nandaka viết:
"-- Các Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào? Mắt là thường hay vô thường?
-- Thưa Tôn giả, vô thường.
-- Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?
-- Thưa Tôn giả, là khổ.
--
Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi xem
cái ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi".?
-- Thưa không vậy, Tôn giả.
-- Các Hiền tỷ, các Hiền tỷ
nghĩ thế nào? Tai là thường hay vô thường?... Mũi là thường hay vô
thường?... Lưỡi là thường hay vô thường?.. Thân là thường hay vô
thường?... Ý là thường hay vô thường?
-- Thưa Tôn giả, vô thường
-- Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?
-- Thưa Tôn giả, là khổ.
--
Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán
cái ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi".?
-- Thưa không vậy, Tôn giả. Vì sao vậy? Trước đây, thưa Tôn
giả, chúng con đã khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng: "Sáu nội
xứ này là vô thường".
-- Lành thay, lành thay, các Hiền tỷ! Chính
phải là như vậy, là cái nhìn như chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh
đệ tử. Chư Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô
thường?
-- Thưa Tôn giả, vô thường
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Thưa Tôn giả, là khổ.
--
Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán
cái ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi".?
-- Thưa không vậy, Tôn giả.
-- Chư Hiền tỷ, các Hiền tỷ
nghĩ thế nào? Tiếng là thường hay vô thường?... Hương là thường hay vô
thường?... Vị là thường hay vô thường?.... Xúc là thường hay vô
thường?... Pháp là thường hay vô thường?
-- Thưa Tôn giả, vô thường.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Thưa Tôn giả, là khổ.
--
Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán
cái ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi?"
-- Thưa không vậy, Tôn giả. Vì sao vậy? Trước đây, thưa Tôn
giả, chúng con đã khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng: "Sáu
ngoại xứ này là vô thường".
-- Lành thay, lành thay, các Hiền tỷ!
Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn, với chánh trí tuệ của vị
Thánh đệ tử. Chư Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào? Nhãn thức là thường
hay vô thường?
-- Thưa Tôn giả, vô thường
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Thưa Tôn giả, là khổ.
--
Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán
cái ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi".?
-- Thưa không vậy, Tôn giả.
-- Này các Hiền tỷ, nhĩ thức là thường hay vô thường?
-- Thưa Tôn giả, vô thường.
-- Tỷ thức là thường hay vô thường?
-- Thưa Tôn giả, vô thường.
-- Thân thức là thường hay vô thường?
-- Thưa Tôn giả, vô thường.
-- Ý thức là thường hay vô thường?
-- Thưa Tôn giả, vô thường.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Thưa Tôn giả là khổ.
--
Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán
cái ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi?"
-- Thưa không vậy, Tôn giả. Vì sao vậy? Trước đây thưa
Tôn giả, chúng con đã khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng: "Sáu
thức thân này là vô thường".
-- Lành thay, lành thay, chư Hiền
tỷ! Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn, với chánh trí tuệ của
vị Thánh đệ tử. Ví như, chư Hiền tỷ, một ngọn đèn dầu được đốt cháy;
dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc là vô thường, chịu sự biến
hoại; ngọn lửa là vô thường, chịu sự biến hoại; ánh sáng là vô thường,
chịu sự biến hoại. Chư Hiền tỷ, nếu có ai nói rằng: "Ngọn đèn dầu này
được đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc là vô thường,
chịu sự biến hoại; ngọn lửa là vô thường, chịu sự biến hoại; nhưng ánh
sáng ấy là thường còn, thường trú, thường hằng không chịu sự biến
hoại",; chư Hiền tỷ, nói như vậy là có nói chân chánh không?
--
Thưa không vậy, Tôn giả. Vì sao vậy? Thưa Tôn giả, ngọn đèn dầu này
được đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc cũng là vô
thường, chịu sự biến hoại; ngọn lửa cũng là vô thường, chịu sự biến
hoại. Còn nói gì đến ánh sáng, cũng là vô thường, chịu sự biến hoại!
--
Như vậy là phải, này các Hiền tỷ! Nếu có ai nói như sau: "Sáu ngoại xứ
này là vô thường, và do duyên sáu ngoại xứ này, tôi có cảm thọ, lạc
thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường còn, thường
trú, thường hằng, không chịu sự biến hoại"; này các Hiền tỷ, người ấy
có nói một cách chân chánh không?
-- Thưa không, thưa Tôn giả.
Vì sao vậy? Thưa Tôn giả, do duyên cái này, cái này cảm thọ như thế
này, như thế này khởi lên. Do diệt các duyên như thế này, như thế này,
các cảm thọ như thế này, như thể này cũng biến diệt.
-- Lành
thay, lành thay, các Hiền tỷ! Chính phải là như vậy, là cái nhìn như
chơn với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử. Ví như, này các Hiền tỷ, có
cây to lớn đứng thẳng, có lõi cây, với rễ vô thường, chịu sự biến hoại,
với thân cây vô thường, chịu sự biến hoại, với cành lá vô thường, chịu
sự biến hoại, với bóng cây vô thường, chịu sự biến hoại. Nếu có người
nói như sau: "Có cây lớn đứng thẳng có lõi cây này, với rễ vô thường,
chịu sự biến hoại, với thân cây vô thường, chịu sự biến hoại, với cành
lá vô thường, chịu sự biến hoại, nhưng bóng mát của cây ấy là thường
còn, thường trú, thường hằng, không chịu biến hoại"; này các Hiền tỷ,
người ấy có nói một cách chân chánh không?
-- Thưa không, thưa
Tôn giả. Vì sao vậy? Thưa Tôn giả, cây to lớn đứng thẳng có lõi cây
này, có rễ vô thường, chịu sự biến hoại, có thân cây vô thường; chịu sự
biến hoại, có cành lá vô thường, chịu sự biến hoại. Còn nói gì đến bóng
mát, cũng là vô thường, chịu sự biến hoại!
-- Như vậy là phải,
này chư Hiền tỷ! Nếu có ai nói như sau: "Sáu nội xứ này là vô thường,
và do duyên sáu ngoại xứ này tôi cảm thọ, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ
bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường còn, thường trú, thường hằng, không
chịu sự biến hoại"; này các Hiền tỷ, người ấy có nói chân chánh không?
--
Thưa không, thưa Tôn giả. Vì sao vậy? Thưa Tôn giả, do duyên cái này,
cái này, cảm thọ như thế này, như thế này khởi lên. Do diệt các duyên
như thế này, như thế này, các cảm thọ như thế này, như thế này cũng
biến diệt.
-- Lành thay, lành thay, chư Hiền tỷ! Chính phải là
như vậy, là cái nhìn như chơn với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử. Ví
như, này các Hiền tỷ, một người đồ tể giết bò thiện xảo hay người đệ
tử; sau khi giết con bò, cắt con bò với con dao sắc bén của người đồ tể
giết bò, mà không hư hại phần thịt ở trong, không hư hại phần da ngoài,
rồi với con dao sắc bén của người đồ tể giết bò, cắt đứt, cắt đoạn, cắt
tiệt mọi dây thịt phía trong; dây gân phía trong, dây khớp xương phía
trong; sau khi cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt và sau khi lột da ngoài, lại
bao trùm con bò ấy với chính da bò ấy rồi nói: "Con bò này đã được dính
liền với da này như trước"; này các Hiền tỷ, nói như vậy có nói một
cách chơn chánh không?
-- Thưa không, thưa Tôn giả. Vì sao
vậy? Dầu cho, thưa Tôn giả, người đồ tể giết bò thiện xảo ấy hay người
đệ tử sau khi giết con bò... lại bao trùm con bò ấy với chính da bò ấy
lại có thể nói như sau: "Con bò này đã được dính liền với da này như
trước", con bò này đã bị lột ra khỏi da ấy.
-- Ta làm ví dụ
này, này các Hiền tỷ, là để nêu rõ ý nghĩa. Ở đây, ý nghĩa này như sau:
Chư Hiền tỷ, thịt ở trong là đồng nghĩa với sáu nội xứ. Chư Hiền tỷ, da
ở ngoài là đồng nghĩa với sáu ngoại xứ, Chư Hiền tỷ, dây thịt phía
trong, dây gân phía trong, dây khớp xương phía trong là đồng nghĩa với
dục hỷ và tham. Chư Hiền tỷ, con dao đồ tể giết bò sắc bén là đồng
nghĩa với Thánh trí tuệ. Với Thánh trí tuệ này cắt đứt, cắt đoạn, cắt
tiệt nội phiền não, nội kiết sử, nội triền phược.
Chư Hiền tỷ,
có bảy giác chi, do tu tập, làm cho sung mãn bảy giác chi này, vị
Tỷ-kheo với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình chứng tri ngay trong hiện
tại với thượng trí; chứng đạt và an trú, vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát. Thế nào là bảy? Ở đây, chư Hiền tỷ, Tỷ-kheo tu tập niệm
giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, hướng đến từ
bỏ; tu tập trạch pháp giác chi, tu tập tinh tấn giác chi, tu tập hỷ
giác chi, tu tập khinh an giác chi, tu tập định giác chi, tu tập xả
giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, hướng đến từ
bỏ. Chư Hiền tỷ, bảy giác chi này, do tu tập, làm cho sung mãn, Tỷ-kheo
với sự đoạn tận các lậu hoặc, sau khi tự mình chứng tri ngay trong hiện
tại, với thượng trí chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát.
Rồi Tôn giả Nandaka, sau khi giáo giới các Tỷ-kheo ni ấy
với lời giáo giới, liền cho giải tán: -- Chư Hiền tỷ, hãy đi về, giờ đã
đến rồi.
Rồi các Tỷ-kheo ni ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời
Tôn giả Nandaka dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tôn giả Nandaka,
thân phía hữu hướng về Tôn giả, rồi đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ
Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo-ni ấy đang đứng
một bên: -- Này các Tỷ-kheo-ni, hãy đi. Giờ đã đến rồi."
Sau
khi tôn giả Nandaka giáo giới cho các vị Tỳ- kheo-ni về lục căn, lục
trần và lục thức, là vô thường khổ và biến hoại, được giáo giới pháp tu
tập bảy giác chi. Các vị Tỳ-kheo tu tập bảy giác chi này, làm cho sung
mãn, với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình chứng tri ngay trong hiện
tại, chứng đạt thượng trí và an trú vô lậu làm cho tâm giải thoát khỏi
vọng tưởng, trí tuệ giải thoát khỏi vô minh.
b).Chánh Trí Tuệ.
Lại một lần nữa, Nandaka, giáo giới pháp quán với chánh trí tuệ.
"--
Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán
cái ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi?"
-- Thưa không vậy, Tôn giả. Vì sao vậy? Trước đây thưa
Tôn giả, chúng con đã khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng: "Sáu
thức thân này là vô thường".
-- Lành thay, lành thay, chư Hiền
tỷ! Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn, với chánh trí tuệ của
vị Thánh đệ tử. Ví như, chư Hiền tỷ, một ngọn đèn dầu được đốt cháy;
dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc là vô thường, chịu sự biến
hoại; ngọn lửa là vô thường, chịu sự biến hoại; ánh sáng là vô thường,
chịu sự biến hoại. Chư Hiền tỷ, nếu có ai nói rằng: "Ngọn đèn dầu này
được đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc là vô thường,
chịu sự biến hoại; ngọn lửa là vô thường, chịu sự biến hoại; nhưng ánh
sáng ấy là thường còn, thường trú, thường hằng không chịu sự biến
hoại",; chư Hiền tỷ, nói như vậy là có nói chân chánh không?
--
Thưa không vậy, Tôn giả. Vì sao vậy? Thưa Tôn giả, ngọn đèn dầu này
được đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc cũng là vô
thường, chịu sự biến hoại; ngọn lửa cũng là vô thường, chịu sự biến
hoại. Còn nói gì đến ánh sáng, cũng là vô thường, chịu sự biến hoại!
--
Như vậy là phải, này các Hiền tỷ! Nếu có ai nói như sau: "Sáu ngoại xứ
này là vô thường, và do duyên sáu ngoại xứ này, tôi có cảm thọ, lạc
thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường còn, thường
trú, thường hằng, không chịu sự biến hoại"; này các Hiền tỷ, người ấy
có nói một cách chân chánh không?
-- Thưa không, thưa Tôn giả. Vì
sao vậy? Thưa Tôn giả, do duyên cái này, cái này cảm thọ như thế này,
như thế này khởi lên. Do diệt các duyên như thế này, như thế này, các
cảm thọ như thế này, như thể này cũng biến diệt.
-- Lành thay,
lành thay, các Hiền tỷ! Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn với
chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử. Ví như, này các Hiền tỷ, có cây to
lớn đứng thẳng, có lõi cây, với rễ vô thường, chịu sự biến hoại, với
thân cây vô thường, chịu sự biến hoại, với cành lá vô thường, chịu sự
biến hoại, với bóng cây vô thường, chịu sự biến hoại. Nếu có người nói
như sau: "Có cây lớn đứng thẳng có lõi cây này, với rễ vô thường, chịu
sự biến hoại, với thân cây vô thường, chịu sự biến hoại, với cành lá vô
thường, chịu sự biến hoại, nhưng bóng mát của cây ấy là thường còn,
thường trú, thường hằng, không chịu biến hoại"; này các Hiền tỷ, người
ấy có nói một cách chân chánh không?
-- Thưa không, thưa Tôn
giả. Vì sao vậy? Thưa Tôn giả, cây to lớn đứng thẳng có lõi cây này, có
rễ vô thường, chịu sự biến hoại, có thân cây vô thường; chịu sự biến
hoại, có cành lá vô thường, chịu sự biến hoại. Còn nói gì đến bóng mát,
cũng là vô thường, chịu sự biến hoại!
-- Như vậy là phải, này
chư Hiền tỷ! Nếu có ai nói như sau: "Sáu nội xứ này là vô thường, và do
duyên sáu ngoại xứ này tôi cảm thọ, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất
lạc thọ; cảm thọ ấy là thường còn, thường trú, thường hằng, không chịu
sự biến hoại"; này các Hiền tỷ, người ấy có nói chân chánh không?
--
Thưa không, thưa Tôn giả. Vì sao vậy? Thưa Tôn giả, do duyên cái này,
cái này, cảm thọ như thế này, như thế này khởi lên. Do diệt các duyên
như thế này, như thế này, các cảm thọ như thế này, như thế này cũng
biến diệt.
-- Lành thay, lành thay, chư Hiền tỷ! Chính phải là
như vậy, là cái nhìn như chơn với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử. Ví
như, này các Hiền tỷ, một người đồ tể giết bò thiện xảo hay người đệ
tử; sau khi giết con bò, cắt con bò với con dao sắc bén của người đồ tể
giết bò, mà không hư hại phần thịt ở trong, không hư hại phần da ngoài,
rồi với con dao sắc bén của người đồ tể giết bò, cắt đứt, cắt đoạn, cắt
tiệt mọi dây thịt phía trong; dây gân phía trong, dây khớp xương phía
trong; sau khi cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt và sau khi lột da ngoài, lại
bao trùm con bò ấy với chính da bò ấy rồi nói: "Con bò này đã được dính
liền với da này như trước"; này các Hiền tỷ, nói như vậy có nói một
cách chơn chánh không?
-- Thưa không, thưa Tôn giả. Vì sao
vậy? Dầu cho, thưa Tôn giả, người đồ tể giết bò thiện xảo ấy hay người
đệ tử sau khi giết con bò... lại bao trùm con bò ấy với chính da bò ấy
lại có thể nói như sau: "Con bò này đã được dính liền với da này như
trước", con bò này đã bị lột ra khỏi da ấy.
-- Ta làm ví dụ
này, này các Hiền tỷ, là để nêu rõ ý nghĩa. Ở đây, ý nghĩa này như sau:
Chư Hiền tỷ, thịt ở trong là đồng nghĩa với sáu nội xứ. Chư Hiền tỷ, da
ở ngoài là đồng nghĩa với sáu ngoại xứ, Chư Hiền tỷ, dây thịt phía
trong, dây gân phía trong, dây khớp xương phía trong là đồng nghĩa với
dục hỷ và tham. Chư Hiền tỷ, con dao đồ tể giết bò sắc bén là đồng
nghĩa với Thánh trí tuệ. Với Thánh trí tuệ này cắt đứt, cắt đoạn, cắt
tiệt nội phiền não, nội kiết sử, nội triền phược.
Chư Hiền tỷ,
có bảy giác chi, do tu tập, làm cho sung mãn bảy giác chi này, vị
Tỷ-kheo với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình chứng tri ngay trong hiện
tại với thượng trí; chứng đạt và an trú, vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát. Thế nào là bảy? Ở đây, chư Hiền tỷ, Tỷ-kheo tu tập niệm
giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, hướng đến từ
bỏ; tu tập trạch pháp giác chi, tu tập tinh tấn giác chi, tu tập hỷ
giác chi, tu tập khinh an giác chi, tu tập định giác chi, tu tập xả
giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, hướng đến từ
bỏ. Chư Hiền tỷ, bảy giác chi này, do tu tập, làm cho sung mãn, Tỷ-kheo
với sự đoạn tận các lậu hoặc, sau khi tự mình chứng tri ngay trong hiện
tại, với thượng trí chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát.
Rồi Tôn giả Nandaka, sau khi giáo giới các Tỷ-kheo ni
ấy với lời giáo giới, liền cho giải tán: -- Chư Hiền tỷ, hãy đi về, giờ
đã đến rồi.
Rồi các Tỷ-kheo ni ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời
Tôn giả Nandaka dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tôn giả Nandaka,
thân phía hữu hướng về Tôn giả, rồi đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ
Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo-ni ấy đang đứng
một bên: -- Này các Tỷ-kheo-ni, hãy đi. Giờ đã đến rồi."
Bài
học này tôn giả Nandaka đã được Phật day nên giáo giới lại cho các vi
Tỳ-kheo-ni về nhản căn sắc trần và nhãn thức theo chơn trí. Chúng ta
nhìn một vật thì thấy và biết như chơn mắt, thấy biết như chơn các sắc,
thấy biết như chơn nhãn thức vì chúng ta đã hiểu được chơn mắt, chơn
các sắc, và chơn nhãn thức theo thật tướng của chúng như đã trình bày
trên. Chơn mắt, chơn sắc, và chơn nhãn thức là một khi nhìn một vật gì
thì sử dụng một lần mà thôi (vô thời gian). Nếu không kéo dài thời gian
thì vật đó còn nguyên thủy: nó-lá-nó tại đó và lúc đó, vô thời không
hay mắt, sắc (vật), hay thấy (nhãn thức) vẫn còn chơn nguyên, thấy biết
không bị xúc thọ ái lăn trôi theo thời gian mà có những khái niệm, nên
mắt, sắc, thấy biết không thay đổi, cố định. Nói chung, trong Trí (hay
Tâm) chúng ta đều có chứa sẵn biểu hiện Trí Năng, Tình Năng và Hoạt
Năng, nên dây thần kinh dẩn truyền lên não hình ảnh của chơn sắc từ
chơn mắt để có chơn nhãn thức thì đồng thời đã xúc chạm dây thần kinh
thị giác, có nhân nhãn xúc; do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ
thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vì chúng ta thấy biết chơn cảm thọ không
có thời gian, nên không có ái trước (trong A Lại Da thức) đối với mắt
(mắt không lập lại), không có ái trước đối với các sắc (hình ảnh các
sắc có sẵn tích tụ) và ái trước đối với nhãn xúc (Xúc có sẵn trong
A-Lai-Da Thức: ký ức). Từ đó do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ,
khổ thọ , bất khổ bất lạc thọ mà không có ái trước đối với cảm thọ ấy.
c) Tâm không có tự tính, và biến diệt.
Vì
sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm không có tự tính. Sáu
thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật. Theo
Shamar Rinpoche, THẾ GIỚI HIỆN TƯỢNG CỦA TÂM được diễn tả như sau:
"Trong
sự nhận biết có hai thành phần: chủ thể nhận biết và vật được nhận
biết. Hiển nhiên là có sự liên quan giữa hai bên, vì có hiệu ứng của
các đối tượng trên Tâm. Đối tượng xinh đẹp sinh ra tham muốn, đối tượng
không hấp dẫn gây ra ghét bỏ và đối tượng trung tính mang lại sự vô
tâm. Vậy, hoặc tâm và các đối tượng có cùng tính chất chính yếu, hoặc
có một liên hệ nhân quả giữa hai bên, như liên hệ giữa khói và lửa...
Vậy
chỉ có một kết luận: đối tượng chính là tâm thức, như vậy những vấn đề
trên không hiện hữu. Tuy nhận biết đối tượng vì chúng là sản phẩm của
tâm, và tâm có thể sinh ra tâm. Thí dụ trong giấc mộng: nếu một người
mơ thấy con ngựa, người đó có thể cảm nhận con ngựa, vì nó là vật do
tâm tạo. Nó được sinh ra bởi tâm và có cùng tính chất với tâm. Cũng
vậy, tất cả những đối tượng khác nhau và những cảm giác v ề chúng đều
nạp vào dòng tâm thức đều do tâm tạo."
Do đó hành giả muốn đạt
được chánh trí, Nandaka lập lại một lần nữa, phải có pháp bảy giác chi
để tu tập.Cái tâm phàm tình vô thường, biến hoại, đổi thay, không có tự
tính. Hành giả cần phải khéo thấy như thật như chơn, với chánh trí hay
chơn tâm, cái bất biến, thường còn. Hành giả phải đoạn tận các lậu
hoặc, để được tự mình chứng tri trong hiện tại, đạt đươc chánh trí, và
an trú vô lậu tâm giải thoát, huệ giải thoát, tức là an trú vào không
tánh vậy.
Hiện tượng vô thường của Tâm hay tâm thức cần phải xác
định, không thể nghi ngờ hay phân vân, như sự vật thay đổi theo thời
gian. Chánh trí và an trú vào không tánh là tối ưu.
Thế Tôn, sau khi các Tỷ-kheo-ni ấy ra đi không bao lâu, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và nói:
"--
Này các Tỷ-kheo, ví như vào ngày Bố-tát, ngày rằm, quần chúng không có
nghi ngờ hay phân vân rằng mặt trăng là không tròn hay mặt trăng là
tròn, vì khi ấy mặt trăng đã tròn; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo-ni ấy hoan hỷ với bài thuyết pháp của Tôn giả Anandaka, và tâm
tư của họ được thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, trong năm trăm Tỷ-kheo-ni ấy,
Tỷ-kheo-ni cuối cùng chứng dược Dự lưu, không còn bị đọa lạc, và chắc
chắn đạt đến chánh giác.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy."
B. Kinh Giáo Giới Channa.
a). Đau khổ vì trọng bệnh.
1. Cần phải kham nhẫn.
Những hỏi thăm bệnh tình và thiện ý tích cực cần thiết:
"
Tôn giả Sariputta cùng với Tôn giả Mahacunda đi đến Tôn giả Channa; sau
khi đến, nói lên với Tôn giả Channa những lời chào đón hỏi thăm; sau
khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sariputta nói với Tôn giả Channa:
--
Này Hiền giả Channa, mong rằng Hiền giả có thể kham nhẫn! Mong rằng
Hiền giả có thể chịu đựng! Mong rằng khổ thọ được giảm thiểu không có
gia tăng, và sự giảm thiểu được rõ rệt, không có gia tăng!
--
Thưa Hiền giả Sariputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể
chịu đựng. Sự thống khổ của tôi gia tăng không có giảm thiểu, và sự gia
tăng rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Hiền giả Sariputta, tôi sẽ đem
dao (cho tôi). Tôi không còn muốn sống."
2. Cần có đủ thức ăn, được phẩm, săn sóc.
Con
người khi bệnh nặng cần ăn uống đầy đủ chất bổ dưỡng, thuốc men, và săn
sóc kỹ lưỡng. Khi thực hiện mọi nhu yếu thì người ta an tâm và vô tội.
Như kinh viết:
"-- Tôn giả Channa, chớ có đem lại con dao! Tôn
giả Channa, hãy tiếp tục sống! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa tiếp tục
sống. Nếu Tôn giả Channa không có các món ăn tốt lành, tôi sẽ đi tìm
các món ăn tốt lành cho Tôn giả Channa. Nếu Tôn giả Channa không có các
dược phẩm tốt lành, tôi sẽ đi tìm các dược phẩm tốt lành cho Tôn giả
Channa. Nếu Tôn giả Channa không có người thị giả thích đáng, tôi sẽ
hầu hạ Tôn giả Channa. Tôn giả Channa chớ có đem lại con dao! Tôn giả
Channa hãy tiếp tục sống! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa tiếp tục sống.
--
Thưa Hiền giả Sariputta, không phải tôi không có các món ăn tốt lành,
cũng không phải tôi không có các dược phẩm tốt lành. Cũng không phải
tôi không có thị giả thích đáng. Thưa Hiền giả Sariputta, trong một
thời gian dài, tôi đã hầu hạ bậc Ðạo Sư, làm cho (bậc Ðạo sư) được đẹp
lòng, không phải không được đẹp lòng. Thưa Hiền giả Sariputta, thật là
thích đáng cho người đệ tử hầu hạ bậc Ðạo Sư, làm cho (bậc Ðạo Sư) được
đẹp lòng, không phải không được đẹp lòng. Tỷ-kheo Channa đem lại con
dao không có phạm tội. Thưa Hiền giả Sariputta, hãy thọ trì như vậy!"
Khi
các tư tưởng tích cực, thỏa mạn những nhu yếu được liễu tri đó là con
dao chặt đứt mọi vọng tưởng, tư tưởng tiêu cực, không gây nghiệp dữ hay
tội lỗi.
b). Đặc Tánh các Pháp: Vô Ngã.
Hành giả cần nhận
thức lục căn, lục trần , lục thức không phải là của tôi, không phải là
tôi, không phải là tự ngã của tôi và chứng tri rằng các pháp là vô ngã.
Kinh viết:
"-- Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Channa về một vấn đề đặc biệt, nếu Tôn giả Channa cho chúng tôi được phép đặt câu hỏi.
-- Hãy bỏ đi, Hiền giả Sariputta; sau khi nghe, tôi sẽ biết (nói như thế nào).
--
Hiền giả Channa, Hiền giả có xem con mắt, nhãn thức và các pháp do mắt
nhận thức là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã
của tôi? " Hiền giả Channa, Hiền giả có xem tai, nhĩ thức... Hiền giả
Channa, Hiền giả có xem mũi, tỷ thức... Hiền giả Channa, Hiền giả có
xem lưỡi, thiệt thức... Hiền giả Channa, Hiền giả có xem thân, thân
thức... Hiền giả Channa, Hiền giả có xem ý, ý thức và các pháp do ý
nhận thức là: "Cái này của tôi, cái này là tôi, cái này không phải tự
ngã của tôi?"
-- Hiền giả Sariputta, tôi xem mắt, nhãn thức và các
pháp do mắt nhận thức là: "Cái này không phải của tôi, cái này không
phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Hiền giả Sariputta,
tôi xem tai, nhĩ thức.. Hiền giả Sariputta, tôi xem mũi, tỷ thức...
Hiền giả Sariputta, tôi xem cái lưỡi, thiệt thức... Hiền giả Sariputta,
tôi xem thân, thân thức... Hiền giả Sariputta, tôi xem ý, ý thức, các
pháp do ý nhận thức là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
-- Này Hiền giả
Channa, Hiền giả đã thấy cái gì, đã chứng tri cái gì trong mắt, trong
nhãn thức, trong các pháp được mắt nhận thức mà Hiền giả xem mắt, nhãn
thức và các pháp do mắt nhận thức là: "Cái này không phải của tôi, cái
này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi?" Hiền giả
Channa, Hiền giả đã thấy cái gì, đã chứng tri cái gì trong tai, trong
nhĩ thức... trong mũi, trong tỷ thức... trong lưỡi, trong thiệt thức...
trong thân, trong thân thức... trong ý, trong ý thức, trong các pháp do
ý nhận thức mà Hiền giả xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi "?
--
Thưa Hiền giả Sariputta, chính vì tôi thấy sự diệt (nirodha), chứng tri
sự diệt trong mắt, trong nhãn thức, trong các pháp do mắt nhận thức, mà
tôi xem mắt, nhãn thức, và các pháp do mắt nhận thức là: "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi". Thưa Hiền giả Sariputta, chính vì tôi thấy sự diệt, chứng tri sự
diệt trong tai, trong nhĩ thức... trong mũi, trong tỷ thức... trong
lưỡi, trong thiệt thức... trong thân, trong thân thức... trong ý, trong
ý thức, trong các pháp do ý nhận thức mà tôi xem ý, ý thức và các pháp
do ý nhận thức là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là
tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Trong cuốn sách "Đối
thoại giữa Triết Học & Tôn Giáo", Mathieu cho rằng " Cái Ngã có
hiện hữu trong giòng tâm thức của chúng ta hay không? Giòng tâm thức có
thể chia thành những tư tưởng về Quá khứ, Hiện tại và Vị lai. Cái Ngã
không thể là tổng số các thời liệu đó, vì lẽ nó không hề có vào bất cứ
thời điểm đặc biệt nào. Quá khứ đã qua không còn nữa, làm sao cái tôi
thuộc về Ký ức. Tương lai chưa đến, thì làm sao có cái Tôi được. Chỉ
còn hiện tại. Để tồn tại, cái tôi cần phải có đặc tánh rõ ràng. Nhưng
nó không có hình thể, màu sắc nơi chốn. Càng tìm, càng không tìm ra nó.
Cái Tôi chỉ là một cái nhãn hiệu dán lên một sự hiện hữu liên tục. Nhận
định như vậy giúp con người giảm nhẹ đi ý niệm xem "cái Tôi" như là một
thực thể tối thượng bắt buộc chúng muốn những gì chúng ta thích và ghét
bỏ những gì chúng ta không ưa. Cảm giác về cái Tôi đó khiến cho con
người tách rời ra khỏi thiên hạ. Và cũng chính từ những tình cảm yêu
ghét sai lạc đó, dấy lên những tư tưởng và tình cảm khởi điểm cho những
lời nói và hành động đưa đến Đau Khổ. Khám phá bằng kinh nghiệm trực
tiếp, bằng phân tích, bằng thiền định rằng cái "Ngã" không thật có, sẽ
là một diẽn trình đi đến giải thoát. Những phương cách đó thật sự hữu
ích, nhất là có rất nhiều kỹ thuật để tác động lên tư tưởng, khiến ta
không còn nô lệ chúng nữa." (tr 51, 52)
c). Thường Trực Tác Ý.
Những
lời Phật dạy lúc bệnh hay trọng bệnh, phải thường trực tác ý là không
có dao động, không có chấp trước thì có khinh an , không có hy cầu tiến
dần tới đoạn tận đau khổ và không có nghiệp thức hay tội lỗi gì.
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Mahacunda nói với Tôn giả Channa:
"--
Do vậy, này Hiền giả Channa, lời dạy này của Thế Tôn phải được thường
trực tác ý: "Ai có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước không
có dao động. Không có dao động, thời có khinh an; có khinh an thời
không có hy cầu (nati); không có hy cầu thời không có khứ lai; không có
khứ lai thời không có tử sanh; không có tử sanh thời không có đời này,
không có đời sau, không có giữa hai đời. Như vậy là sự đoạn tận đau
khổ".
Rồi Tôn giả Sariputta và Tôn giả Mahacunda sau khi giáo giới
cho Tôn giả Channa, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi Tôn giả Channa,
sau khi Tôn giả Sariputta và Tôn giả Mahacunda ra đi không bao lâu, đem
dao lại (cho mình). Rồi Tôn giả Sariputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Sariputta bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Channa đã đem dao lại (cho mình), sanh xứ của Tôn giả ấy là gì? Ðời sống tương lai là gì?
-- Này Sariputta, có phải trước mặt Ông Tỷ-kheo Channa đã tuyên bố sự không phạm tội?
C) Kết Luận.
Tâm
vô thường pháp vô ngã là những đặc tánh cần được biết. Tâm pháp là
những thực tại vô thường, vô ngã, khổ đau, biến hoại, chúng không có tự
tính. Cho nên cần phải tu tập pháp bảy giác chi để chứng tri, đạt được
chánh trí, và an trú nơi không tánh. Liễu tri các tác ý, tư tưởng tích
cực để được khinh an, tâm thức nhẹ nhàng, không gây nghiệp dữ hay tội
lỗi. Đó là minh tâm chánh trí, là pháp giải thoát vậy.
Tham khảo
Kinh Giáo Giới Candaka và Channa. HT. Thích Minh Châu Việt dịch trong website Trung Tâm các Chùa PG, Texas: http://www.vnbc.org
Chuyển Hóa Tâm, Shamar Rimpoche, A. R, Palmo, Lục Thạch dịch trong website Quảng Đức (Tâm lý học): www.quangduc.com
Đối thoại giữa Triết Học và Tôn giáo. Jean Francois Revel & Mathieu Ricard, do B/S Hồ hữu Hưng biên soạn dịch