Bài giảng
Giới Thiệu Luận Thành Thật
16/11/2008 13:28 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Giờ luận Thành Thật, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội

LUẬN THÀNH THẬT
(Satyasiddhi śāstra )
Giảng viên: Thích Giác Hiệp
Bài giảng:
- Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội
- Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại TP.HCM
- Lớp Cao Đẳng TP.HCM

I. LỊCH SỬ TRUYỀN THỪA:

Bộ luận Thành Thật (Sat‎yasiddhi) do ngài 訶 梨 跋 摩 Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) viết khoảng thế kỷ thứ 3 TL. Ngài Ha-lê-bạt-ma từng là học trò của Nhất thiết hữu bộ và không hài lòng với giáo l‎ý của bộ phái này. Tác phẩm này rõ ràng chỉ trích tư tưởng Nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivāda). Các học giả không có thể liệt bộ luận này vào trường phái nào của Phật giáo Ấn độ, vì tư liệu liên quan đến nó rất ít ỏi. Cũng không có sử liệu để chứng minh rằng tác phẩm này thịnh hành ở Ấn độ và phiên bản Sanskrit của tác phẩm cũng không còn.[1] Nhưng hiện tại có 4 giả thuyết về nguồn gốc của trường phái này:

          1) Là tác phẩm chọn lọc nên không thuộc vào trường phái nào. 
          2) Là sản phẩm của Pháp Tạng bộ (Dharmagupṭaka, đây là quan điểm truyền thống Nhật)
          3) Thuộc Kinh lượng bộ (Sautrāntika)
          4) Thuộc Đa văn bộ (Bahuśrutīya).

Nội dung tác phẩm chứa đựng tư tưởng Đại thừa. Một số học giả Trung quốc phân loại nó vào Đại thừa nhưng quan điểm này không được thịnh hành. Đệ tử nổi tiếng của ngài Huyền Trang là ngài Khuy Cơ đã xác định nguồn gốc của tác phẩm. Ngài tuyên bố rằng tác phẩm này thuộc Tiểu thừa, Kinh Lượng bộ. Và bộ luận này chịu ảnh hưởng Vaibhāṣika. Tuy nhiên ngài cũng công nhận nó có khuynh hướng thiên về giáo l‎ý Đại thừa.

Thành Thật luận được ngài Cưu-ma-la-thập dịch sang tiếng Hán khoảng năm 411-412 TL. Ngài Cưu-ma-la-thập đã nỗ lực truyền bá bộ luận này bằng cách thuyết giảng và ngài cũng truyền cho đệ tử của ngài. Có 2 học trò của ngài Cưu-ma-la-thập uyên thâm về bộ luận này, ngài Tăng Đạo và Tăng Tung. Có khoảng 24 bộ sớ giải về bộ luận Thành Thật. Hàng trăm bài giảng được thuyết giảng khắp Trung quốc về bộ luân.

II.     PHÁT TRIỂN Ở TRUNG QUỐC:

1. Dòng truyền Nam Phương Thọ Xuân:

Ngài Tăng Đạo (360-457 TL), học trò của ngài Cưu-ma-la-thập, thông thạo bộ luận Thành Thật. Ngài là người Trường An, xuất gia năm 10 tuổi. Tác phẩm của ngài gồm: (1) Thành Thật nghĩa sớ, (2) Không hữu nhị đế luận, (3) Tam luận nghĩa sớ. Ngài Tăng Đạo là người có công hình thành hệ thống Thành Thật Nam phương. Vào năm 440 TL ngài Tăng Đạo từ Trường An đến vùng Thọ Xuân, phương nam để hoằng truyền Thành Thật. Ngài Tăng Đạo ở chùa Thọ Xuân Đông Sơn rộng truyền, giảng thuyết về Thành Thật và các luận thư khác. Học trò của ngài gồm: 1) ngài Tăng Oai, 2) Tăng Chung, 3) Tăng Âm. Các vị rất giỏi về luận thư.

2. Dòng truyền Bắc Phương Bành Thành:

Ngài Tăng Tung cũng là một đệ tử của ngài Cưu-ma-la-thập, ở tại Bành Thành chùa Bạch Tháp hoằng dương luận Thành Thật, hình thành nên hệ thống Bắc phương. Học trò của ngài gồm: 1) ngài Tăng Uyên, 2) Đàm Độ, 3) Đạo Đăng.

Thành Thật truyền đến đời Đường, một số cao Tăng thời này cũng tham học Thành Thật. Như ngài Huyền Trang, trước khi nhập Trúc cầu pháp, cũng tham học luận thư này. Thành Thật thịnh hành nhất vào thời đại Nam Bắc triều (420-589 TL). Đến thời Đường các luận sư chia Thành Thật thành Tiểu thừa, hậu quả là sự nghiên cứu luận thư của tông giảm thiểu. Mặt khác một số kinh, luận Đại thừa đang thịnh hành như: Thập Địa Kinh Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận…và đặc biệt làm Tam luận  tông bắt đầu hưng phát. Do vậy Thành Thật suy tàn dần.

3. Ba vị Đại Pháp sư thời Lương:

Đời Lương là thời gian Tông Thành Thật đạt đến điểm cao của sự phát triển. Khi giảng kinh và luận các vị Tổ sư thường đưa tư tưởng Thành Thật luận vào, và giảng giải theo khuynh hướng giáo nghĩa Đại thừa. Do vậy khiến cho một số người nghiên cứu Thành Thật luận ngộ nhận Thành Thật thuộc Đại thừa. Và họ thường gọi các vị luận sư của Thành Thật là “Thành Luận Đại thừa sư.” Đời Lương có 3 vị Đại Pháp sư tiêu biểu cho danh xưng này. Ba vị Đại Pháp sư là: 
          (1) Pháp sư Trí Tạng ở chùa Khai Thiện, 
          (2) Pháp sư Tăng Mân ở chùa Trang Nghiêm, 
          (3) Pháp sư Pháp Vân ở chùa Quang Trạch.

Ba vị Đại Pháp sư đều tinh thông kinh, luận Đại thừa và các học thuyết A-tỳ-đàm.

III.   NỘI DUNG LUẬN THƯ:

Thành Thật luận tên Sanskrit là Satyasiddhi-śātra,[2] có nghĩa là chân thật. Ý nghĩa của Thành Thật là sự chân thật của tứ đế. Và còn có nghĩa nữa là bộ luận này thuyết minh nghĩa lý chân thật của tất cả Tam tạng Thánh điển Phật giáo. Tác phẩm này có tất cả 202 phẩm được phân chia ra là 5 nhóm (ngũ tụ).

1)   Phát tụ: phần bài tựa của luận và luận về Tam bảo và nói lý do tạo luận. Phần này cũng có bàn về nghĩa lý của Tứ đế.

2)   Khổ đế tụ: Luận về khổ của ngũ thủ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

3)   Tập đế tụ: Luận về nguyên nhân của khổ, nghiệp và phiền não.

4)   Diệt đế tụ: luận về việc diệt trừ 3 loại tâm: giả danh tâm, pháp tâm và không tâm để có thể đạt được cảnh giới niết-bàn.

5)   Đạo đế tụ: Phân định về định và trí. Hai loại này là phương tiện để diệt từ khổ để hiển bày niết-bàn.

IV.    TRIẾT LÝ:

Thành Thật chủ trương ngã không (pudgala-śūnyatā) pháp không (sarva-dharma-śūnyatā). Chủ trương này trái ngược với tông Câu-xá, chủ trương ngã không, pháp hữu. Ngài Ha-lê-bạt-ma cho rằng giáo lý Tứ đế là trọng tâm của Tam tạng. Mục đích ngài viết bộ luận này, như ngài giải thích trong phẩm 36, là để làm sáng tỏ ý nghĩa Tứ đế.  

1.    Giáo lý Nhị đế:

Thành Thật quán sát vạn hữu trong vũ trụ thành lập ra nhị môn đó là: 1) Thế giới môn, và 2) Đệ nhất nghĩa môn, tên khác của Tục đế và Chân đế.

Thành Thật nhấn mạnh không tính của ngã và pháp. Mặc dù chủ trương như thế, họ tin rằng họ đạt được trung đạo giữa thường tồnhư vô. Quan niệm của họ về Trung đạo được giải thích bằng Nhị đế. Ở mức độ Tục đế (Saṃvṛti-satya), Thành Thật chấp nhận sự hiện hữu tạm thời của ngũ uẩn tạo thành cá nhân cũng như sự hiện hữu của 84 pháp. Nhưng ở mức độ Chân đế (paramārtha satya), những thứ này được xem là rỗng không, không có tính chất thường tồn.

2.   Nhân pháp giai không:

Thành Thật luận chủ trương quán nhân và pháp đều không.

1) Quán nhân không: nghĩa là quán nhân ngã đều không. Nhân ngã đều do năm uẩn hoà hợp mà thành. Trong thân, tâm của chúng ta và người không có thật thể. Các luận sư Thành Thật thường lấy vị dụ cái bình để minh chứng cho nhân, ngã đều không.

2) Quán pháp không: nghĩa là các yếu tố, chất liệu tạo thành nhân ngã đều không có thật thể. Chúng ta có thể lấy ví dụ cái bình, thể chất của nó không thật có. Sắc thân của chúng ta do năm uẩn hợp thành, chúng có những cái tên giả tạm. Chúng ta không tìm thấy được thực thể bên trong của chúng.

3.    84 pháp:

Thành thật phân chia các tất cả các pháp hữu vi và vô vi ra thành 5 vị bao gồm 84 pháp:

1)   Sắc pháp: có 14 pháp
2)   Tâm pháp: có 1 pháp.
3)   Tâm sở pháp: có 49 pháp.
4)   Phi sắc phi tâm pháp: có 17 pháp. 
5)   Vô vi pháp: có 3 pháp.

4.   Ba loại trở ngại:

Ba loại trở ngại này ngăn chúng ta đạt giác ngộ, gọi là Tam chủng tâm:

1)       Chấp giả danh (giả danh tâm): Người thường cho rằng giả danh là thật hữu. Để loại bỏ sai lầm này hành giả phải nhận rõ được tính vô thường của các hiện tượng, chúng là sản phẩm của các nhân hợp thành và như vậy chúng không thật.

2)       Chấp pháp (pháp tâm): Ngay cả các yếu tố, chúng hình thành các pháp giả tạm, phải được nhận rõ rằng chúng vô thường và không thật hay không có thật chất.

3)       Chấp không (không tâm): Mặc dù sự hiểu biết đặc tính không thật của danh và pháp đã đạt được, vẫn còn một khái niệm về không, điều này cần nên loại trừ để đạt được Diệt đế, Niết bàn.

5. Phân chia thời giáo:

1)  Ngũ giáo

(1) 三 乘 別 教: tức là vì mỗi hạng người mà nói các loại pháp khác nhau, vì Thinh văn nói Tứ đế, vì Bích chi Phật thuyết Thập nhị nhân duyên, vi Đại thừa thuyết Lục độ, như kinh A-hàm

(2) 三 乘 通 教:giáo lý thông cả 3 thừa, như kinh Bát nhã

(3) 仰 揚教: tán dương giáo lý Bồ tát thừa, chê bai giáo lý Thinh văn, như kinh Tịnh Danh, Tư ích

(4) 同 歸教: giáo lý khai 3 thừa cuối cùng đưa đến một Phật thừa, như kinh Pháp Hoa

(5) 常 住教: giáo lý chủ trương Phật tính thường trụ, như kinh niết-bàn.

2) Tam giáo:

(1) Đốn giáo: kinh Hoa Nghiêm

(2) Tiệm giáo: bao gồm ngũ giáo

(3) Bất định giáo: kinh Thắng Man, kinh Kim Quang Minh.

V. Kết luận:

- Có nhiều tranh cãi về nguồn gốc tư tưởng Thành Thật, đa số cho rằng Thành Thật thuộc Kinh Lượng bộ có khuynh hướng Đại thừa.

- Luận thư làm sáng tỏ giáo lý Tứ đế

- Theo Thành Thật, mức độ cao nhất của quá trình tu chứng tâm linh là quả vị A-la-hán. Do điểm này nên Thành Thật được xem là Tiểu thừa, mặc dù giáo lý‎ của nó rất gần với Đại thừa, đặc biệt là giáo lý ngã không pháp không.

Tài liệu tham khảo:

1. Matsunaga, A. & D. Foundation of Japanese Buddhism, Vol I, Tokyo: Kenkyusha Printing Co., 1974.

2. Dutt, Nalinaksha., Buddhist Sects in India, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 1998.

3. Đại Chánh Tân tu Đại tạng kinh, vol. 32.1646.

4. Kalupahana, David J., (ed.) Buddhist Thought & Ritual, Delhi: Motilal Barsidass Publishers, 2001.

5. Sogen, Yamakami, Systems of Buddhistic Thought, New Delhi: Cosmo Publications, 2002

6.Takakusu, Junjiro., The Essentials  of Buddhist Philosophy, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 1998

7.Trần Thế Hiền, Thành Thật Luận Tam Tâm Tư Tưởng chi Nghiên Cứu, Đài Loan: Phụ Nhân đại học Triết học nghiên cứu sở, Trung hoa dân quốc 89.

8.Yoshinori, Takeuchi, (ed.) Buddhist Spirituality: Indian, Southeast Asian, Tibetan, Early Chinese, Vol. 1, Delhi: Motilal Banarsidass, 1995


[1] A. & D. Matsunaga, Foundation of Japanese Buddhism, (Vol. I, Tokyo: Kenkyusha Printing Co., 1974) 41.

[2] T 32, no. 1646

phatgiao.vn

» Ảnh đẹp
» Liên kết website
Search
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch