II. CHUYỂN TÂM THỨC THÀNH TÂM TRÍ
1.- Nhị Nguyên Tính
Chủ
thể gồm có lục căn: nhãn nhĩ tĩ thiệt thân và ý. Lục căn là căn để chủ
yếu tiếp xúc đối tượng ngoài và trong tâm, là nguồn gốc, là nhân khi có
điều kiện gặp đối tượng, sinh ra cảm giác. Lục căn kết hợp với lục
trần, là đối tượng, là duyên để tạo ra cảm giác hay là Thức. Thức nầy
do căn Ý Tác Động với đối tượng vừa sinh ra chơn Thức hay Cảm giác thì
đồng thời Ý Tác Năng ý niệm hóa nên ta liền có Tri giác hay gọi là Giác
Thức. Thí dụ, khi ta thấy cô gái, đầu tiên mắt ta thấy một hình ảnh,
chỉ thuần là một hình thể được hội tụ trong võng mạc của mắt mà thôi,
sau đó được dây thần kinh truyền đến não bộ và ý thức (hay biết được
hay Tri Giác) được cô gái. Sở dĩ Tri giác được cô gái là vì Căn Ý Tác
Động tiếp xúc với cô gái chỉ nhận được hình ảnh thuần túy mà chưa biết
được cô gái. Ý Tác Động chỉ ghi nhận, Ý Tác Năng hay Tâm bắt đầu chọn
lọc để có ý niệm về đối tượng ghi nhận cần được biết nầy. Ý Tác Năng có
sẳn trong Tàng Thức và Ký Ưc (Kinh nghiệm) nên nó có thể nhận ra hình
thể cảm giác ghi nhận là cô gái. Vậy Thức(Cảm giác) và Giác Thức (Tri
giác) có chức năng ý niệm hóa đối tượng, nhận ra tên đối tượng qua kinh
nghiệm cùng những đặc tính của chúng theo quan niệm con người.
Vậy,
Chủ Thể(Lục Căn), Đối Tượng (Lục Trần) kết hợp nhờ Căn Ý (thường gọi là
Ý Thức) mới sanh ra Lục Thức. Thức và Giác Thức còn gọi là Tâm Thức.
Tâm thức nầy được hình thành bởi Nhị Nguyên Tính của Chủ Thể và Khách
Thể.
2.- Nhất Nguyên Tương Đối
Dòng tâm thức
luôn trôi chảy không ngừng nghỉ vô thủy vô chung chạy dài theo thời
gian và lăn trôi trong không gian vô tận. Dòng tâm thức ấy hiện diện
trong quá khứ, ngay cả hiện tại và cả tương lai không lúc nào nó vắng
mặt. Ở ngoại giới (không gian) hay trong nội tâm (tâm khảm) không nơi
nào mà dòng tâm thức không bị ảnh hưởng. Sáu Thức ra vào sáu Căn, nhân
đó có tham trước muôn cảnh tạo thành Nghiệp dữ (Vô minh), che khuất Bổn
thể Chơn như. Do ba độc (Tham Sân Si) sáu giặc (Lục Thức hay Lục Tặc),
nên chúng ta bị mê hoặc và rối loạn thân tâm, trôi giạt trong sanh tử
luân hồi, lăn lóc trong sáu đường (Lục đạo: Thiên, Nhơn, A Tu La, Súc
Sanh, Ngạ Quỷ và Địa Ngục), chịu cảnh khổ đau. Nghiệp Thức như có hấp
lực, lôi kéo Thân Khẩu Ý chạy theo Tâm viên Ý mã của mình. Tâm thức
theo Thời Gian kết tụ. Dòng Tâm Thức bị chi phối bởi Nhị Nguyên Tính
hay là sự lăn trôi của Giác Thức. Giác Thức là Vô Minh là Tâm Bất An.
Muốn ra khỏi vòng kiềm tỏa của Vô Minh ta phải có Giác Trí cũng như ta
muốn ra khỏi bóng tối (Vô Minh) thì phải có ánh sáng (Giác Trí). Làm
sao đạt được Giác Trí ?
Dòng Giác Thức (Tâm Thức) trôi lăn từng
sát na liên tục. Trong Hiện Tại nầy ta không thể nắm bắt được. Dù cho
ta nắm bắt được một điểm nào trên dòng Tâm Thức đang trôi chảy, thì chỉ
là một điểm của Tâm Thức. Dù một điểm không có kích thước không có ba
chiều đi nữa thì Giác Thức đó trở thành Nhất Niệm cũng còn nằm trong
Nhị Nguyên Tính mà thôi (Chủ Khách, Căn Trần). Thấy cô gái dù thấy cô
gái trong một sát na thời gian rồi ta duyên qua đối tượng khác, thì
Giác Thức ấy cững lưu lại trong Ký Ưc (Mạt Na thức và Tàng Thức). Vậy
thì phải dùng Giác Trí (Ý Tác Năng) tri nhận Giác Thức nguyên sơ tại
thực tại điểm của Giác Thức Đang Là. Vì lẽ nếu không nắm ngay khởi điểm
của Giác Thức Nguyên Sơ thì Giác Thức của đối tượng mà ta ghi nhận đã
huyễn hoá rồi qua một sát na. Nên không thể nắm một điểm khác hơn là
đầu nguồn. Nhị Nguyên biến thành Nhất Nguyên khi Chủ Thể và Đối Tượng
hiệp lại làm một; nghĩa là Giác Thức đã được Tâm ý niệm hóa đối tượng
là Cái Biết của Căn. Cái Biết ấy là do Tâm Biết nên gọi là Tâm Thức.
Cái Biết của Trí do Ý Tác Năng, nó ở sẵn trong Tâm (Tàng Thức) và Cái
Biết của Thức cùng một Tâm, cùng ở trong một nhà,cùng ở trong Không
Gian của Tâm (Tâm Khảm), không còn hai bên, đối tượng và chủ thể, không
còn khoảng không gian ngoài nào xen vào Giác Trí), cùng một cội nguồn,
nên Giác Trí xóa hết dòng Tâm Thức, Vô Minh. Đó là thể cách CHUYỂN THỨC
THÀNH TRÍ.Tuy vậy Giác Trí nầy cũng sẽ huyễn hóa theo Thời Gian. Do đó
Giác Trí Đang Là lưu chuyển mãi thành ra Tư Tưởng, hayTrí Thức cũng còn
bị ràng buộc của vọng tưởng theo Thời Gian. Giác Trí là đạo lý Nhất
Nguyên Tương Đối.
3.- Năng Sở Song Vong
Căn Ý có hai
phần, một phần hướng ra ngoài là Ý Tác Động với đối tượng thành Ý Thức
hay Tâm Thức, phần hướng sâu vào trong có sẳn trong Tâm là Ý Tác Năng,
khi ý niệm hóa Ý Thức hay Tâm Thức thành Ý Trí hay Tâm Trí. Lúc Ý Thức
ở cùng chung một nhà với Ý Trí, thì Năng Sở đã song vong, căn trần đã
phủ định, là Thức được chuyển thành Trí rồi, tức Nhất Nguyên Tính Tương
đối. Đó cũng là Pháp Môn Không Hai.