Nghiệp là một khái niệm chủ yếu trong giáo lý Phật giáo mang nhiều khía
cạnh tâm lý và triết học siêu hình thật sâu sắc và phức tạp, thế nhưng lại thường
được hiểu một cách quá máy móc và đơn giản. Bài viết dưới đây sẽ cố gắng trình
bày khái niệm căn bản này dưới các góc nhìn bao quát, khoa học và triết học hơn.
Tánh
“không” là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo
và cũng là học thuyết bị người khác hiểu sai lầm nhiều nhất. Họ thường
không hiểu rõ hay ngộ nhận ý nghĩa của hai chữ sắc và không trong đạo
Phật. Họ lẫn lộn hoặc lợi dụng vào hiện tượng đồng âm dị tự trong tiếng
Việt và Hán Việt, đánh đồng hai khái niệm hoàn toàn khác nội dung làm
một, để bôi bác giáo lý của đạo Phật. Hai khái niệm đó là – phủ định từ
“không” – đối lập với có, và tính “không” (sunyata) tức tính “không thực
thể” của mọi sự vật hiện tượng.
Tánh
“không” là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo
và cũng là học thuyết bị người khác hiểu sai lầm nhiều nhất. Họ thường
không hiểu rõ hay ngộ nhận ý nghĩa của hai chữ sắc và không trong đạo
Phật. Họ lẫn lộn hoặc lợi dụng vào hiện tượng đồng âm dị tự trong tiếng
Việt và Hán Việt, đánh đồng hai khái niệm hoàn toàn khác nội dung làm
một, để bôi bác giáo lý của đạo Phật. Hai khái niệm đó là – phủ định từ
“không” – đối lập với có, và tính “không” (sunyata) tức tính “không thực
thể” của mọi sự vật hiện tượng.
Trong các bộ luận nổi tiếng của Ngài thì Trung
Quán Luận là xuất sắc hơn cả. Bởi lẽ, nó chứa một nội dung tư tưởng triết
học với Tính Không, Trung Đạo, Giả danh, hay duyên khởi là căn bản. Duyên Khởi
ra đời giúp cho mọi mười hiểu được các sự vật, hiện tượng (pháp) trên thế gian
này đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, thực tướng của nó là vô tướng, nên quán
như thế thì sẽ thoát ra khởi sự “chấp pháp: chấp đại thừa và chấp tiểu thừa. Và Duyên khởi trong Trung Quán Luận ảnh hưởng tới Thiền Phật giáo thời Lý - Trần.
Thời Đức Phật tại thế, các Phật tử thường hướng về nơi Ngài
và chúng Tăng đang cư ngụ đảnh lễ và xưng niệm danh hiệu của Như Lai,
đầy đủ thập hiệu, để tỏ lòng cung kính, tri ân và cầu nguyện. Khi thực
tập như thế, họ cảm thấy được an ủi nhiều lắm.
Đã làm người
trong thiên hạ ai không một lần thất bại. Nếu ta ngồi yên hay đứng lại một chỗ
thì không bao giờ vấp ngã, càng bước đi, càng dễ vấp ngã, nhưng nó không làm chết
đi những con người tài đức, mà chỉ là thử thách, tôi luyện thêm ý chí, lập trường
cho người có đức hạnh và tài ba.
Các Tổ Sư, các Cao Tăng Phật giáo là những vị thực tu
thực chứng, có Định có Tuệ, có kiến giải sâu sắc, có tầm nhìn thấu thị
về nhiều vấn đề, do vậy lời nói, câu chữ viết ra thành thơ, thành văn,
hoặc phát biểu nơi này nơi khác, những lúc mạn đàm, đều sâu sắc để lại
dấu ấn cho người đọc người nghe.
Chuỗi tràng trong Phật Giáo ngoài công năng là pháp khí tu hành ra còn
là bảo vật của Tam Bảo, tín vật của sự truyền Pháp và là pháp vật chứa
đựng công đức, cũng như thần lực rất cao vì tích tụ sự tu trì, công đức
của các bậc tu hành.
Muốn thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi, muốn được quả vị thánh
nhân, Bồ Tát, chúng ta cần trau giồi cho được một tâm vô cùng rộng lớn,
một "vô lượng tâm".
Thiền Vipassana
(thiền minh sát tuệ) là một phương pháp tu đơn giản, thực tế mang lại
kết quả là tâm an lạc và hướng đến một đời sống lợi lạc và hạnh phúc.
Vipassana có nghĩa là " thấy mọi sự
Các tin đã đăng: