Từ thông báo lỗi đó của máy tính, tôi chợt liên hệ với cách
nhìn của chúng ta về thế giới và bỗng cảm nhận rằng dường như trong
cách nhìn có một gì đó không được chính xác, nếu không muốn nói là quá
máy móc và sai lầm. Chỉ khác một điều là khi máy tính thông báo lỗi thì
ta nhận thấy, vì máy “treo” không hoạt động được; còn khi thế giới tự nhiên “thông báo lỗi”
ta lại không nhận thấy, vì thế giới vẫn cứ vận hành, vẫn cứ trôi miên
man theo dòng hóa sinh vô tận. Nếu chúng ta cảm nhận được “thông báo lỗi” của thế giới tự nhiên thì biết đâu cuộc sống sẽ bớt đi sự sung đột giữa những thế giới quan khác nhau.
Có bao giờ trong một đêm khuya nào đó, ngồi một mình giữa cõi tĩnh
lặng, bạn ngước nhìn bầu trời đêm thăm thẳm và băn khoăn về nguồn gốc
của vũ trụ hay không? Sự thăm thẳm huyền bí của vũ trụ ắt hẳn luôn làm
nảy sinh trong ta nhiều câu hỏi. Đến một lúc nào đó có thể những câu hỏi
này sẽ xuất hiện trong tâm trí bạn: “Cái thế giới quanh ta từ đâu mà có? Vì sao lại có vũ trụ thay vì là khoảng hư không mênh mông vô tận? Bản nguyên của nó là gì?”.
Từ thuở khai thiên lập địa cho đến bây giờ, có lẽ con người vẫn luôn
thắc mắc như thế. Từ băn khoăn thắc mắc đó, từ cách đặt câu hỏi đó, mà
biết bao tôn giáo và đủ loại triết học đã xuất hiện trên cõi đời này để
giúp cho con người bớt đi bao nỗi xao xuyến, hoang mang. Đôi khi tiếng
nói vang vọng từ thắc mắc kia trở nên yếu ớt hoặc bị khuất lấp bởi cuộc
sống xô bồ hoặc nghiệp chướng, nhưng có lẽ sớm muộn gì rồi cũng đến
lúc chúng ta phải đối mặt với nó, để rồi từ đó tìm lời giải đáp cho câu
hỏi: “Đâu là chân diện mục của thế giới và đâu là ý nghĩa đời?”.
Vì đâu và từ đâu mà vũ trụ lại hiện hữu, thay vì là hư không? Liệu vũ
trụ hay toàn thể thế giới vật chất này có phải là cái mà triết học duy
vật thường gọi là “tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người” chăng? Bản nguyên của vũ trụ là Tâm hay Vật?
Đây là câu hỏi đã kéo theo cuộc tranh luận dài cả nghìn năm giữa hai
trường phái (tạm gọi thế) triết học duy tâm và duy vật. Nếu bỏ công sức
và tâm huyết tìm câu trả lời chỉ nhằm để thỏa mãn trí tò mò, thì đó là
sự hoài công uổng phí. Câu trả lời chỉ có giá trị nếu như nó giúp con
người tìm ra chốn an thân lập mệnh, vì từ đó ta nhận ra ý nghĩa cõi đời.
Thử tưởng tượng một vũ trụ không có loài người, không có các loài
sinh vật mà chỉ gồm các thiên thể vô hồn cứ mãi mãi vận hành trong
khoảng không bao la vô tận; hoặc nếu như vũ trụ chỉ toàn là một khoảng
không bao la, hoàn toàn không có một vật thể hay sinh thể nào, kể cả người đang ngồi nêu thắc mắc về nó, thì liệu vũ trụ đó có thể gọi và có nên gọi là tồn tại khách quan chăng? Ai biết và cảm nhận được sự tồn tại đó? Và nếu không một ai biết về nó thì làm ta sao có thể biết đó là tồn tại khách quan?
Có thể có cái gọi là “tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người” chăng? Thử hỏi nếu không có chủ thì lấy đâu ra khách để có cái gọi là tồn tại khách quan? Trong một thế giới hoàn toàn không có sự giao thông liên lạc thì liệu con lạc đà có gọi là tồn tại không, đối với người dân Eskimo suốt đời ở miền Bắc cực? Hoặc con voi rừng có thể được gọi là tồn tại không, đối với người dân suốt đời sống trên hòn đảo giữa biển khơi bao la? Chúng ta gọi con lạc đà hay con voi rừng là tồn tại khách quan bởi một lý do đơn giản là nhờ chúng ta biết về chúng. Do chúng ta biết về chúng nên ta mới gọi đó là sự tồn tại khách quan, chứ
đối với người dân Eskimo hay người dân du mục kia thì con lạc đà hay
con voi rừng kia có thể xem như không hề tồn tại. Một vật chỉ thực sự
tồn tại khi nó tác động vào nhận thức ta, vào tâm ta. Nghĩa là vật nhờ tâm mà hiện hữu, tâm nhờ vật mà sinh khởi.
Thông thường, những người mang đầu óc khoa học thực tiễn vẫn cho rằng “thế giới vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức”.
Người phương Tây, với đầu óc duy lý, rất coi trọng các định nghĩa. Sau
khi đã gán định nghĩa cho một đối tượng nào đó thì người ta càng trau
chuốt các định nghĩa và yên tâm là đã nắm bắt được bản thân của cái
hiện thực sống động qua các định nghĩa đó. Thử suy nghĩ kỹ một chút ta
thấy ngay cả trong định nghĩa về cái “tồn tại khách quan” đó
dường như cũng hàm chứa sự mâu thuẫn rồi, vì định nghĩa một đối tượng
có nghĩa là gán cho nó những bản chất, những thuộc tính được xác định
bởi tính chủ quan của chính người định nghĩa.
Thử hỏi dựa vào đâu, lấy thẩm quyền gì mà ta có thể cho rằng cách
nhìn nhận thế giới của ta như thế là đúng? Câu trả lời của người theo
khoa học thực tiễn ắt hẳn là Lý Trí. Nó là vị thẩm phán tối cao để quyết
định Chân lý. Sau bóng đêm dài thời Trung cổ, toàn thể Âu châu như
bừng tỉnh trong thời Phục hưng với sự đăng quang của lý trí trong phong
trào triết học Khai sáng (Enlightenment) ở thế kỷ 18. Lý trí được xem
là ngọn đuốc soi sáng cho lịch sử, được dùng để xác định mọi giá trị và
đem đến sự cải thiện xã hội về mặt nhân văn. Nhưng có quả thật lý trí
chính là tiêu chí tối thượng để phán xét và đánh giá mọi vấn đề? Chúng
ta hãy thử nghe triết gia Heidegger lên tiếng “Tư tưởng chỉ bắt đầu
tư tưởng, là lúc chúng ta lịch-nghiệm-thể-hội được rằng cái Lý Trí,
vốn từ bao thế kỷ được xiển dương xưng tụng, chính nó là thù địch ngoan
cố nhất của Tư Tưởng”1. Suốt một thời gian dài, sự
sùng thượng lý trí quá mức trong xã hội phương Tây, cũng như cái học
thượng lễ ở xã hội Á Đông, đã khiến cuộc sống trở nên xơ cứng, rập
khuôn mà thiếu đi tiếng nói đằm thắm của tâm tình, trong khi chính đời
sống tâm tình mới mở tâm thức con người đi vào những điều lung linh
huyền mật.
Cái học phương Đông thường không tin rằng lý trí có thể thấu hiểu
được mọi vấn đề bằng khả năng phân tích, tổng hợp của nó, mà luôn xem lý
trí – và theo đó, tri thức – là chướng ngại trên con đường tìm về tâm
đạo. Hiện thực sống động luôn trôi chảy, ta không thể bắt nó dừng lại
để quan sát, theo cái nhìn lạnh lùng của lý trí, dù chỉ trong một sát
na. Thế giới sum la vạn tượng ở sát-na này đã khác với cái thế giới
trong một sát-na trước đó. Vạn hữu luôn mới tinh khôi, như lần đầu tiên
được sáng tạo. Do đó, chỉ có cái-giờ-đây mới là cái thực.
Trong tinh thần phương Đông, người ta không quan tâm đến định nghĩa
mà đi thẳng vào trọng tâm vấn đề. Nghĩa là cái mà người ta quan tâm là
con bướm thực đang bay lượn ngoài đồng nội, chớ không là tiêu bản bướm
trong lồng kính của phòng thí nghiệm. Ví dụ, trong phần mở đầu kinh Kim
Cương, Trưởng lão Tu-bồ-đề khi thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp, đã không
hỏi thế nào là tâm, không cần Phật phải định nghĩa tâm là gì, một khi
đã phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ đề; ngài chỉ hỏi về chỗ trụ và cách
hàng phục tâm. Thay vì hỏi “Như là thị tâm?” thì vị trưởng lão kia chỉ đặt vấn đề “Vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?”.
Thử hỏi, ta làm sao có thể nhìn nhận được cái thế giới tồn tại khách
quan một cách chính xác, trong khi chính bản thân chúng ta là một thành
phần của nó? Liệu con cá có thể hiểu về cái đại dương mà trong đó nó
đang bơi lội, hay con khỉ có thể hiểu về cái khu rừng mà trong đó nó
đang nhảy nhót, giống như người quan sát từ bên ngoài – giả định là các
nhà khoa học – hay không? Cũng thế, liệu con người có thể hiểu về cái
thế giới mà trong đó nó đang sống, đúng như người quan sát từ bên ngoài –
giả định là Thượng Đế – hay không?
Ta thử dùng một thông báo lỗi rất thông thường trong phần mềm Excel
quen thuộc để có một minh họa lý thú cho điều này. Ví dụ ô A2 chứa số 2,
ô A3 chứa số 8 và ô A4 chứa số 10. Khi ta đặt con trỏ máy tính
(cursor) vào ô A1 và gõ công thức “=sum(A2:A4)”, thì ô A1 sẽ có giá trị
là tổng giá trị của các ô A2, A3 và A4, tức là 20 (=2+8+10). Nhưng nếu
đặt con trỏ máy tính vào ô A1 mà ta gõ công thức “=sum(A1:A4)”, thì
máy sẽ không thực hiện lệnh đó mà báo lỗi “tham chiếu vòng tròn” với lời giải thích: “Công thức chứa lỗi tham
chiếu vòng tròn và không thể tính toán chính xác được. Lỗi tham chiếu
vòng tròn là bất kỳ sự tham chiếu nào nằm trong công thức tùy thuộc vào
các kết quả của chính công thức đó. Chẳng hạn một ô (cell) tham chiếu
đến giá trị của chính nó, hay một ô tham chiếu đến một ô khác, mà ô đó
lại tùy thuộc vào giá trị của ô ban đầu thì cả hai đều mắc lỗi tham
chiếu vòng tròn”2. Nếu ta bấm nút OK hay Cancel
để tiếp tục thì nó sẽ có giá trị là 0. Nói một cách cụ thể thì ô A1
không thể mang giá trị của một tổng mà bản thân của nó là một thành phần
của chính tổng đó.
Tương tự như vậy, liệu con người có thể quán sát một cách đúng đắn
toàn thể khối hiện thể trong khi chính bản thân chúng ta là một thành
phần trong toàn thể khối hiện thể đó hay không? Dĩ nhiên là không. Vậy
làm thế nào mà con người có thể tự cho mình có khả năng quán sát được
toàn thể vạn hữu để có thể đưa ra định nghĩa về tồn tại khách quan?
Nếu ta cứ quán sát thế giới khách quan một cách chủ quan như thế thì
kết quả quán sát cũng sẽ là 0, vì thực ra ta đang mắc lỗi “tham chiếu vòng tròn”, hay nói cụ thể hơn là “mắc vào cái vòng lẩn quẩn”, mà không hề hay biết.
Thử hỏi con người có thể nào quán sát toàn thể vạn hữu đúng nghĩa
không, khi mà chính kẻ quán sát lại là một thành phần của đối tượng được
quán sát? Khi ta đóng vai một người quán sát thế giới thì liệu cái gọi
là tồn tại khách quan có xuất hiện đúng như vậy hay không? Ta
làm sao xem trọn vẹn và chính xác được vở tuồng mà trong đó ta là một
diễn viên? Ta đứng ở góc độ nào để quán sát thế giới, theo cách mà khoa
học gọi là khách quan? Một thực thể trong tự nhiên khi được
quan sát thì luôn biến thành từng đối tượng nhận thức mang các thuộc
tính khác nhau đối với từng chủ thể quan sát khác nhau. Từ sự quán sát
chung về thế giới tự nhiên, nền khoa học phương Tây đã không ngừng phát
triển thành nhiều ngành nghiên cứu và bộ môn khác nhau, đó là sự minh
chứng cho điều này. Từ một đối tượng được quan sát, ta đâu có thể rút ra
được cái gọi là “quy luật vận động khách quan” trong bản thân
sự vật có giá trị chung cho mọi chủ thể quán sát. Nhà triết học, nhà
vật lý, nhà hóa học hay nhà thiên văn học… đều nhìn thế giới tự nhiên
theo những cách khác nhau, với những quy luật vận động khác nhau. Vậy
thì đâu là cái “thế giới tồn tại khách quan” có giá trị chung cho mọi chủ thể quán sát?
Thiền sư Vân Môn – Tổ thiền phái Vân Môn – một hôm thượng đường, đưa cây gậy lên nói: “Phàm
phu cho nó là thực nên gọi nó là có, Nhị thừa phân tích gọi nó là
không, Duyên giác gọi nó là có mà hư ảo, Bồ-tát xem bản thể hiện tại của
nó là Không. Đám thầy tu chúng ta hễ thấy cây gậy thì cứ gọi là cây
gậy, đi liền đi, ngồi liền ngồi, hoàn toàn không được động đến”. (Phàm
phu thực vị chi hữu, Nhị thừa tích vị chi vô, Duyên giác vị chi huyễn
hữu, Bồ tát đương thể tức không. Nạp tăng gia kiến trụ trượng, tiện hoán
tác trụ trượng, hành tiện hành, tọa tiện tọa, tổng bất đắc động trứ.). Chỉ một cây gậy thôi mà đã có nhiều cách nhìn, tùy theo trình độ giác ngộ. Vậy thì đâu là “cây gậy tồn tại khách quan”?
Lại nữa, nếu chỉ quan sát thế giới bằng giác quan và chỉ tin vào
những chứng cứ do giác quan đem lại thì liệu siêu âm có tồn tại với đôi
tai, hay tia hồng ngoại có tồn tại với đôi mắt của một người bình
thường? Cô Liên bán hoa xinh xắn trong truyện dài Gánh hàng hoa
của Khái Hưng không bao giờ tin có vi trùng vì nàng cho rằng không
thể có con vật nào nhỏ đến mức đôi mắt tinh tường của nàng lại không
nhìn thấy. Trên đời này vẫn có vô vàn các cô Liên. Đó là những kẻ tin
tuyệt đối vào lý trí, như cô Liên tin vào đôi mắt tinh tường, với sự
khẳng định ngây thơ rằng khoa học sẽ giải đáp được tất cả vấn đề nan
giải của cuộc đời; hoặc những kẻ tin tưởng một cách ấu trĩ rằng lịch sử
sẽ trôi đúng theo phép lý luận quy nạp!
Chúng ta biết được siêu âm hay tia hồng ngoại là nhờ những thiết bị
máy móc; cũng vậy, muốn nhận biết được những điều huyền mật trong vũ
trụ còn khuất lấp với lý trí thì chúng ta hẳn phải nhờ đến một dạng “thiết bị” khác. Đó là tuệ giác.
Nếu từ bỏ lý trí thì dựa vào đâu ta có thể quán sát được toàn thể vũ trụ mà không mắc vào lỗi “tham chiếu vòng tròn”?
Thử tưởng tượng nếu ta đặt một tấm kính khổng lồ soi được tất cả vũ
trụ, thì nhìn vào gương đó ta có thể quán sát toàn thể vũ trụ, kể cả
chính bản thân ta. Vạn hữu hay toàn bộ khối hiện thể, bao gồm chính ta,
như một Nhất Thể Viên Dung tự phân đôi làm hai để quan chiêm
lẫn nhau. Cái Ta bên này cũng chính là cái Ta bên ấy. Đây chính là chỗ
cảm ứng tự nhiên giữa tâm và vật theo tinh thần Kinh Dịch: “Dịch, vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố”. (Đạo của Dịch là không nghĩ gì, không làm gì, cứ lặng lẽ bất động mà thấu suốt ngay mọi nguyên cớ trong thiên hạ).
Nhà thơ Nguyễn Du hẳn đã đạt đến cảnh giới cảm ứng “vô tư, vô v, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông” đó qua hai câu thơ kết trong bài Tạp thi:
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự,
Từ thời tâm kính tự như như.
(Lá rơi hoa nở là những chuyện diễn ra trước mắt
Suốt bốn mùa tấm gương lòng vẫn cứ sáng rỡ lặng yên).
Tâm như tấm gương sáng, cứ tùy vật đến mà cảm ứng, theo tinh thần “tâm như hư không, vô sở chướng ngại”
của Phật giáo. Muốn vật khi đến thì điều hiện ra trong tấm gương lòng,
tâm cứ tùy vật mà cảm; khi muôn vật đi thì tâm trở nên lặng lẽ, tịch
nhiên bất động, vẫn luôn ngời sáng mà không chút bận lòng với cái gọi là
tồn tại khách quan!
Nói một cách cưỡng bức và mang dáng dấp “tư tưởng hiện đại” của phương Tây một chút thì đó là chỗ mà nhà thờ Bùi Giáng nói qua lời tựa (Avant-Propos) trong tập Dialogue:
“… một Hằng Thể Lưu Tồn tự phân đôi: hai vũ trụ quan chiêm nhau
trong một cõi doanh hoàn; một cõi doanh hoàn tự cách thành hai miền bị
cách ngăn bởi một hố thẳm. Hoạt tinh thể của hố thẳm nằm ở chỗ nó có thể
bị vượt qua bằng một bước nhảy. Hoạt tinh thể của bước nhảy là sự liều
lĩnh dấn thân”3.
Một bước nhảy liều lĩnh xóa mờ biên giới chủ và khách, giữa tâm và
cảnh, mà nói theo ngôn ngữ thơ mộng của Bùi Giáng, ta tạm gọi đó là “liên tồn mở những trận chiêm bao mơ màng ra suốt xứ”! Và chính ở chỗ bước nhảy này, theo tinh thần nhảy vào hố thẳm của kinh Dịch – “dược tại uyên” – với sự buông lơi toàn bộ lý trí, mà ta mới nhảy qua được lỗi “tham chiếu vòng tròn” để nghiệm thêm ra ý nghĩa “sự sự vô ngại” trong tư tưởng Hoa Nghiêm.
Ghi chú:
1. Sương Tỳ hải, Bùi Giáng dịch, NXB An Tiêm, tr. 186, Sài Gòn, 1996.
2. One or more formulars contain a circular reference and may not
calculate correctly. Circular references are any references within a
formular that depends upon the results of that same formular. For
example, a cell that refers to its own value or a cell that refers to
another cell which depends on the original cell’s value both contain
circular references.
3. “…
un être se dédouble: delux univers se comtemplent dans un monde; un
monde se partage en delux contrées qu’un abîme sépare. L’essence de
I’abîme réside dans le fait qu’il peut être franchi d’un bond.
L’essence du bond, c’est le risque
”. (Dialogue, nhiều tác giả, NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1965). Lời dịch
của tôi sử dụng những dụng ngữ quen thuộc của chính nhà thơ Bùi Giáng
để cố gắng chuyển tải nội dung nguyên văn câu tiếng Pháp của ông.
Theo: Văn hóa Phật giáo