Hòa thượng Thích Trí Hải thế danh là Đoàn Thanh Tảo,
sinh năm Bính Ngọ (1906) tại làng Quần Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam
Hà. Xuất thân trong một gia đình chuyên làm ruộng và dệt vải. Thân phụ
là Đoàn Văn Đích tự Phúc Thực, thân mẫu là Nguyễn Thị Tuất hiệu Diệu
Mậu. Hòa thượng là con trưởng, dưới Ngài còn có 2 người em gái.
Năm
12 tuổi, Hòa thượng được gia đình cho theo học tại chùa làng 5 năm. Do
đó, trở thành mến đạo và có ý định xuất gia. Đến năm 17 tuổi, được cha
mẹ cho phép và qua sự hướng dẫn, giới thiệu của sư cụ Thanh Dương, Hòa
thượng chính thức xuất gia nhập đạo dưới sự dạy dỗ trực tiếp của Tôn sư
Thích Thông Dũng tại chùa Mai Xá huyện Lý Nhân tỉnh Nam Hà. Với tư chất
thông minh và tính cần cù, hiếu học, Hòa thượng tiếp thu nhanh chóng
giáo lý và các nghi thức tụng niệm, cho nên chẳng bao lâu sau khi xuất
gia Hòa thượng đã được thụ giới Sa di.
Với tinh thần hòa hợp và
sách tiến trong tăng chúng, năm 19 tuổi Hòa thượng đã cùng một số tăng
ni trẻ thành lập Đoàn thanh niên Tăng lấy tên là Lục Hòa Tịnh Lữ.
Năm 20 tuổi, Hòa thượng thụ giới Tỷ khiêu, sau đó tiếp tục đi học và kết hạ trong suốt 5 năm.
Đến
năm 20 tuổi, Hòa thượng bắt đầu ra trụ trì chùa Phú Đa, xã Yên Lập,
huyện Bình Lục, Nam Hà. Sau đó một năm lại trở về trông coi chùa Mai Xá
vì Tôn sư của Hòa thượng viên tịch.
Năm 1932, Hòa thượng đã cùng
với các vị Tăng sĩ và cư sĩ Phật tử thành lập Ban Phật học Tùng thư để
nghiên cứu phiên dịch và ấn hành các kinh sách với mục đích phổ độ giáo
lý cho các hàng Phật tử.
Đến năm 1934, với tinh thần trách nhiệm
đối với Phật pháp đương thời, nhận thấy cần phải phục hưng chấn chỉnh
và phát triển sâu rộng Phật giáo trên toàn Bắc Việt, nên Hòa thượng đã
cộng tác chặt chẽ với các tăng ni, phật tử có đạo tâm và uy tín để tiếp
nhận chùa Quán Sứ Hà Nội làm trụ sở trung ương và chính thức thành lập
Hội Phật giáo Bắc Kỳ làm cơ sở pháp lý cho việc phục vụ chính pháp. Bởi
vậy, lịch sử Phật giáo Việt Nam viết thêm một trang tươi sáng.
Năm
1935, để truyền bá giáo lý, gây ý thức về chủ trương chân chính của Hội
trong việc tương trợ lẫn nhau khi hoạn nạn lúc đau yếu hay lâm chung,
trong việc hệ thống hóa và đoàn thể các hàng Phật tử, tăng ni cùng cư
sĩ, Hòa thượng cùng với bản hội đã cố gắng xuất bản tờ tuần báo “Đuốc
Tuệ” và lập nhà in Đuốc Tuệ là tiền thân của bán nguyệt tập san Diệu âm
và Phương Tiện sau này. Ngoài ra Hòa thượng còn chủ trương xuất bản một
tờ nhật báo Tân tiến.
Năm 1936, Hòa thượng nhận thấy chùa Quán
Sứ cũ không đủ đáp ứng những nhu cầu cần thiết như : Nghi lễ, Hội họp,
diễn giảng và tiếp tân, bởi lẽ, sau khi được thành lập, chẳng những các
phật tử trong nước tới chiêm bái mỗi ngày một đông đảo mà còn có các du
khách ngoại quốc thường lui tới. Vì thế, Hòa thượng đã đứng ra đại diện
tái thiết toàn bộ ngôi chùa này trên một quy mô kiểu mới.
Việc này
đã khởi công đặt chân móng vào ngày mồng 8 tháng tư năm Bính Tý (1936).
Đồng thời tổ chức Đại lễ suy tôn Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Hanh
(Vĩnh Nghiêm) lên ngôi Thiền gia Pháp chủ, và lập trường Tăng học đặt
tại chùa Bồ đề, bên cầu Long Biên, Gia Lâm Hà Nội. Ngoài ra Hòa thượng
còn tích cực vận động được 50 mẫu ruộng để giải quyết vấn đề kinh tế
căn bản cho các tăng sinh yên tâm tu học.
Vào năm 1937 – 1938,
Hòa thượng đã sang Trung Hoa 11 tháng để tham khảo Tam tạng kinh điển,
thăm viếng các cơ sở Phật giáo, tiếp xúc với những nhà lãnh đạo lớn của
Phật giáo Trung Hoa như Thái Hư Đại sư, Thiện Nhân pháp sư… và thu lượm
những kinh nghiệm cũng như phương pháp tổ chức chỉ đạo. Cuối năm 1938,
Hòa thượng lại sang Lào, Thái Lan lập các chi hội Phật giáo Việt kiều
Hải ngoại và đặt quan hệ Phật sự với các đoàn thể Phật giáo của hai
nước.
Năm 1941 – 1942, nhằm dạy dỗ thanh thiếu niên và tạo một
nơi an nghỉ cuối cùng cho các Hội viên quá cố, Hòa thượng đã ủy thác
cho đạo hữu Nguyễn Hữu Kha, tức Thiều Chửu lập trường học Phổ Quang, và
nghĩa trang tế độ. Cả hai cơ sở này đều tọa lạc trong vùng ngoại ô Hà
Nội. Một trường Ni học cũng được khai giảng tại chùa Bồ Đề, Gia Lâm Hà
Nội. Trường Tăng học trước cũng đặt tại chùa này, tăng chúng mỗi ngày
một đông, do đó phải chia ra và di chuyển tới chùa Cao Phong, Phúc Yên
do Hòa thượng Tuệ Tạng hướng dẫn, tới chùa Côn Sơn, Hải Dương do Hòa
thượng Tố Liên giảng dạy, tới chùa Hải Dương do Hòa thượng Thái Hòa đào
luyện. Cả bốn ngôi chùa trên đều thuộc của Hội, và dưới quyền giám hộ
trực tiếp của Hội.
Năm 1945 – 1946, một nạn đói kém lan truyền
khắp Bắc Việt, tiếp theo một biến cố lịch sử đã đưa đất nước Việt Nam
sang một vận hội mới đầy vinh quang : Đó là cuộc cách mạng giành độc
lập thắng lợi của toàn dân, do Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu lãnh đạo,
lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thể hiện lòng từ bi cứu khổ và
góp phần vào việc xây dựng xã hội mới, Hòa thượng đã cùng với Hòa
thượng Tố Liên và cư sĩ Triều Chửu thành lập tổng hội Cứu tế tại chùa
Quán Sứ Hà Nội để giúp đỡ tiền gạo cho những người đói khổ, dựng một cô
nhi viện nuôi hơn 200 trẻ em thất lạc bơ vơ không nơi nương tựa, không
may cuối năm 1946, chiến tranh lại bùng nổ trên toàn quốc, số phận các
cô nhi viện cực kỳ bấp bênh và các phật sự phải tạm dừng. Hòa thượng đã
đưa một phần các em về chùa Mai Xá, Nam Hà và dạy cho chúng làm nghề
thủ công như đan mũ cối, xe đay, kéo sợi và dệt chiếu để tự túc. Còn
các em khác thì được đạo hữu Thiều Chửu dẫn lên Phúc Yên sinh sống.
Năm
1950, Hòa thượng đã thỉnh được toàn bộ Tân tu Đại chính Đại tạng từ
Nhật Bản để bổ sung vào thư viện Phật giáo tại chùa Quán Sứ. Vấn đề
thỉnh Đại tạng kinh này đã được lưu ý từ khi Hội Phật giáo Bắc kỳ được
thành lập. Song song với việc này, Hòa thượng Tố Liên đã đi tham dự
Đại hội thành lập Hội Liên hữu Phật giáo Thế giới họp tại thủ đô Tích Lan (Sri-lan-ca).
Năm
1951, để thích ứng kịp thời với phong trào Phật giáo thế giới đang phát
triển tại châu Á, châu Âu, châu Úc… 6 hệ phái Phật giáo của Bắc, Trung,
Nam đã họp tại chùa Từ Đàm (Huế), thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam
và cung thỉnh Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội chủ và Hòa
thượng Trí Hải làm đệ nhất phó hội chủ.
Năm 1952, theo nhịp bước
tiến chung của Phật giáo trong nước và nước ngoài, Giáo hội Tăng Già
Việt Nam được thành lập tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, cũng nằm trong tinh
thần và hoạt động thống nhất toàn quốc. Đại hội suy tôn Đại lão Hòa
thượng Tuệ Tạng (Thích Thanh Thuyền) lên ngôi Thượng thủ, và bầu Ngài
làm trị sự trưởng.
Năm 1953, với mục đích đào tạo tăng tài và trao
đổi văn hóa Phật giáo với các nước trong tổ chức Phật giáo Thế giới,
Hòa thượng cùng với các quý Hòa thượng khác, dưới danh nghĩa Tổng hội
và Giáo hội đề cử một số quý thầy như : Thanh Kiểm, Tâm Giác, Phúc Tuệ,
Thiên Ân, Trí Không, Minh Châu, Huyền Dung… sang du học tại Ấn Độ, Tích
Lan (Sri-lan-ca) và Nhật Bản.
Và cùng trong năm này, Hòa thượng
đứng ra xây dựng trường trung – tiểu học Vạn Hạnh trong khuôn viên chùa
Hàm Long Hà Nội. Tuy nhiên, trong chùa Quán Sứ bấy giờ cũng đã có
trường tiểu học Khuông Việt, cả hai trường đều dạy theo chương trình
thế gian.
Năm 1954, hòa bình lập lại trên miền Bắc, Hòa thượng đã vận động xây chùa Phật giáo Hải Phòng, trong 3 tháng hoàn thành.
Năm
1958, Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam ra đời với đường lối mới tại
chùa Quán Sứ Hà Nội, Hòa thượng cũng hòa mình tham dự với chư Tăng,
nhưng vì tuổi cao sức yếu cho nên Hòa thượng không giữ một chức vụ nào.
Tuy nhiên tại chùa Phật giáo Hải Phòng, Hòa thượng vẫn cố gắng hướng
dẫn Phật tử, sáng tác và phiên dịch nhiều tác phẩm. Trước sau về văn
học Phật giáo, Hòa thượng đã hoàn thành được 27 cuốn :
• Nhập Phật Nghi tắc
• Nghi thức tụng niệm
• Khôn sống
• Gia đình giáo dục
• Truyện Phật Thích Ca
• Phật học ngụ ngôn
• Lời vàng
• Kinh Thập thiện
• Kinh kiến chính
• Phật học phổ thông
• Phật học vấn đáp
• Đồng Nữ La Hán
• Cái hại Vàng Mã
• Phật hóa tiểu thuyết
• Kinh lục độ tập
• Tâm chúng sinh
• Thanh gươm trí tuệ
• Luận Quán Tâm
• Phẩm Quán Tâm
• Khóa Hư lục
• Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh
• Nhân gian Phật giáo Đại cương
• Nghi thức Tam quy
• Duy Ma Cật và Viên Giác
• Các văn sớ
• Nghĩa khoa cúng chúc thực
• Phật giáo triết học
• Hồi ký thành lập Hội Phật giáo Việt Nam.
Năm
1979, sau khi Tổ quốc thống nhất được 4 năm, Hòa thượng vào tham quan
miền Nam, tại thành phố Hồ Chí Minh trong 3 tuần, được toàn thể Tăng
Ni, Phật tử đón tiếp nhiệt liệt và kính mến. Đặc biệt, khi trở về miền
Bắc được ít hôm, Hòa thượng lâm bệnh và thị tịch nhẹ nhàng, nhằm ngày
07 tháng 6 năm Kỷ Mùi (30.6.1979) tại chùa Phật giáo Hải Phòng.
Hòa thượng trụ thế 74 tuổi, hoằng đạo 57 năm.
Tóm
lại : Cố Hòa thượng Thích Trí Hải là một trong những bậc cao tăng của
lịch sử Phật giáo Việt Nam và Hòa thượng vẫn sống mãi trong lòng Tăng
Ni Phật tử hiện tại cũng như tương lai.
(Bản tiểu sử này do
Tổ Đình Vĩnh Nghiêm biên soạn và được đọc trong một buổi phát tang
tưởng niệm Tổ tại chùa Vĩnh Nghiêm năm 1979)