I. Thân thế:
HT.Thích
Huệ Hải, thế danh Nguyễn Trung Tín, sinh ngày 17-7-Kỷ Mùi (1919) tại
làng Bình Đức, tỉnh Mỹ Tho, nay là TP.Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Hòa
thượng xuất thân trong một gia đình trung nông, thân phụ là cụ ông
Nguyễn Trung Chánh theo tín ngưỡng Khổng giáo, thân mẫu là cụ bà Huỳnh
Thị Đạo theo tín ngưỡng Phật giáo. Vì vậy, Hòa thượng đã sớm ảnh hưởng
bởi hai nền đạo giáo đó là Phật giáo và Khổng giáo. Thân phụ và thân
mẫu của ngài sanh được hai người con. Hòa thượng là con thứ hai, người
chị cả tên Nguyễn Thị Tất đã tham gia tích cực trong việc tiếp tế lương
thực cho anh em bộ đội giải phóng quân trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ và đã hy sinh.
II. Xuất gia - Học đạo:
Thuở
ấu thời, Hòa thượng rất thông minh và khôi ngô. Năm lên 7 tuổi, Hòa
thượng được bà nội dẫn đi chùa và quy y Tam bảo với Tổ Phi Lai thượng
Chí hạ Thiền húy Như Hiển và được Tổ đặt cho pháp danh là Hồng Trung
hiệu Thiện Tín.
Năm 10 tuổi (1929), nhân duyên hội đủ, ngài chính thức xuất gia đầu Phật với Tổ Phi Lai chùa Phi Lai, núi Voi - Châu Đốc.
Năm
1933, Tổ Phi Lai viên tịch, lúc ấy Hòa thượng được 14 tuổi, Hòa thượng
tiếp tục cầu pháp và học đạo với HT.Thích Như Tâm, trụ trì chùa Định
Long, Châu Đốc.
Năm 15 tuổi (1934), Hòa thượng y chỉ sư cho phép Ngài đăng đàn thọ giới Sa di.
Năm
20 tuổi (1939), để viên mãn tam đàn giới pháp, Hòa thượng được thọ Đại
giới tại chùa Phước Trường, thuộc xã Mỹ Trung, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ
Tho (nay là tỉnh Tiền Giang).
Sau
khi thọ Đại giới, Hòa thượng luôn nỗ lực học tập kinh điển Đại thừa và
đã lần lượt tham học với HT.Thích Huệ Pháp, húy Hồng Phó, trụ trì chùa
Long Khánh, xã Mỹ Đức, Châu Đốc; HT.Thích Thiện Huyền, húy Nhật Đạt;
HT.Thích Minh Nguyệt, chùa Bửu Long - Trung Lương, Mỹ Tho.
Năm 1948, Hòa thượng về cầu pháp với HT.Thích Bửu Thọ, húy Như Mật chùa Tây An và ngài được HT ban cho Pháp tự Thích Huệ Hải.
III. Hành đạo
Năm
1954, HT về Sài Gòn, do thân tứ đại không được mạnh khỏe nên HT dưỡng
bệnh tại chùa Phước Trường, Bàn Cờ, Q.3; Năm 1955, HT làm trụ trì chùa
Long Hoa, Nhà Bè, tỉnh Gia Định; Năm 1956, trụ trì chùa Bửu Lâm, núi
Thị Vải, tỉnh Phước Tuy (nay là tỉnh BR-VT); Năm 1957 đến năm 1960, HT
theo học khóa huấn luyện trụ trì Như Lai sứ giả do Giáo hội Tăng già
Nam Việt tổ chức tại chùa Pháp Hội - Sài Gòn; Năm 1960 đến 1961, HT làm
Giám viện Phật học đường Lưỡng Xuyên tỉnh Trà Vinh; Năm 1962, Phật tử
Hà Vi Hưng, pháp danh Minh Đức và Ôn Thị Đệ, pháp danh Diệu Hạnh cúng
dường khu đất xây dựng chùa Từ Quang và đến năm 1966 ngôi già lam Từ
Quang đã hoàn tất việc xây dựng và tổ chức lễ khánh thành vô cùng trọng
thể; Năm 1967 đến 1974, Hòa thượng liên tục mỗi năm mở khóa An cư kiết
hạ và Đại giới đàn tại chùa Từ Quang cho các giới tử từ các tỉnh miền
Tây Nam Bộ về thọ lãnh giới pháp để tu học, do các vị Đại lão HT luân
phiên làm đàn đầu Hòa thượng như: HT.Thích Trí Tịnh, HT.Thích Thiện
Hòa, Thích Hành Trụ, Thích Huệ Hưng và Hòa thượng luôn chứng dự trong
hàng Thập sư truyền giới.
Tại
Đại hội Phật giáo TP.Hồ Chí Minh nhiệm kỳ III (1990-1993), Hòa thượng
được Đại hội cung thỉnh vào ngôi vị Chứng minh Ban Trị sự Thành hội
Phật giáo TP.Hồ Chí Minh cho đến ngày viên tịch.
Tại
Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IV năm 1997, Hòa thượng
được Đại hội suy tôn lên hàng Giáo phẩm Thành viên Hội đồng Chứng minh
Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho đến ngày về cõi Phật.
Với
giới đức trang nghiêm, thanh tịnh, mô phạm chốn tòng lâm, Hòa thượng
thường được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu của các Giới đàn của
Thành hội Phật giáo TP.Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Bà Rịa-Vũng
Tàu v.v... có hàng ngàn giới tử đã đắc pháp, giới thể châu viên, giới
thân thanh tịnh, trang nghiêm dòng diệu thể. Với tự thân, Hòa thượng
luôn là một ngọn đèn sáng soi và dẫn dắt hàng hậu học. Ngài luôn khép
mình trong giới luật, khiêm cung, từ hòa hỷ xả, thực hiện hạnh thiểu
dục tri túc, xiển dương Tịnh độ và luôn luôn niệm Phật cầu vãng sanh.
Lòng từ bi của Ngài luôn trải rộng ra tất cả, không phân biệt, luôn hòa
đồng tôn giáo và luôn chấp hành theo đường lối, chủ trương của Đảng,
Nhà nước cũng như của Giáo hội.
Bằng
ý nghĩa trang nghiêm ngôi Tam bảo Từ Quang, Hòa thượng cùng Tăng Ni,
Phật tử quyết tâm trùng tu chùa Từ Quang khang trang huy hoàng như ngày
hôm nay, xứng đáng là cơ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thành hội
Phật giáo TP.Hồ Chí Minh và Phật giáo địa phương. Nhất là cùng quý
HT.Thích Minh Lượng, HT.Thích Minh Chánh quyết tâm trùng tu Tổ đình Kim
Cang, nơi ghi dấu tháp Tổ sư Nguyên Thiều trú xứ Đồng Nai Nam Bộ.
Đồng
thời, Hòa thượng kết hợp cùng với Ban Đại diện Phật giáo huyện đã tổ
chức khóa An cư kiết hạ cho huyện và quận trong nhiều năm liền, tổ chức
đạo tràng tu Bát quan trai cho Phật tử, hình thành lớp giáo lý cho Phật
tử tu học theo con đường Phật pháp tại trú xứ chùa Từ Quang cũng như
các cơ sở của Phật giáo quận trong suốt thời gian Hòa thượng còn tại vị.
IV. Thời gian viên tịch:
Thế
rồi, theo định luật vô thường, sanh lão bệnh tử, trong những năm tháng
cuối đời, thân tứ đại của Hòa thượng không được bình thường nhưng Hòa
thượng luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác cho đến khi Hòa
thượng thu thần viên tịch vào lúc 5 giờ 20, ngày 15 tháng 9 năm 2008,
nhằm ngày 16 tháng 8 năm Mậu Tý. Trụ thế 90 năm; hạ lạp 70 năm. Hòa
thượng ra đi trong niềm kính tiếc vô biên của môn đồ pháp quyến, của
Tăng Ni và Phật tử Phật giáo Việt Nam.
Nam
mô Từ Lâm Tế Gia Phổ, Tứ thập thế, Pháp húy thượng Hồng hạ Trung, tự
Huệ Hải, hiệu Thiện Tín, Nguyễn công Đại lão Hòa thượng Giác linh.
Môn đồ pháp quyến đồng bái lập