- Trần Trọng Tài (Thích Giải Hiền)
NCS. Tiến sĩ Chính sách Hành chính Giáo dục
Đại học Quốc lập Quốc tế Chinan Đài Loan
- Lâm Nghi Hân (Lin, Yi-Hsin)
NCS. Thạc sĩ So sánh Giáo dục
Đại học Quốc lập Quốc tế Chinan Đài Loan
_____________________________________
I. Bối cảnh hình thành hệ thống đánh giá chất lượng đại học Đài Loan
Sau năm 1945, khi Đài Loan được trả về lại cho Trung
Hoa Dân Quốc (không còn là thuộc địa của Nhật gọi là Quang Phục). Lúc
đó Đài Loan chỉ có 4 trường đại học và học viện là:
Đại học Quốc lập[1] Đài Loan (thời Nhật thống trị Đài Loan là trường đại học Đế Quốc Đài Bắc) và 3 Học viện là : Học viện Nông nghiệp tỉnh lập[2]
Đài Loan, Học viện Công nghệ tỉnh lập Đài Loan, Học viện Sư phạm tỉnh
lập Đài Loan. Đến thập niên 1950 có 7 trường Đại học (một trường đại
học, ba học viện và ba trường cao đẳng chuyên khoa), cùng ba chương
trình đào tạo cao học. Tổng cộng 6.665 học sinh
(台灣教育發展史料彙編編輯委員會編輯小組,1987:1808;廖鴻裕,2001:61). Để đáp ứng nhu cầu nguồn
nhân lực của công cuộc xây dựng đất nước, chính phủ tích cực xây dựng
thêm nhiều trường cao đẳng và học viện. Đồng thời cho phép tư nhân mở
trường cao đẳng và học viện. Suốt quá trình 40 năm phát triển, đặc biệt
là sau khi bãi bỏ pháp lệnh giới nghiêm vào năm 1987, số lượng các
trường phát triển vượt bậc (xem biểu đồ số 1). Đến năm 2000, tổng số
các trường đại học và học viện là 135 trường (廖鴻裕,2001:61). Vì số lượng
các trường đại học và học viện phát triển nhiều nên xã hội bắt đầu chú
ý đến chất lượng của các trường. Đây chính là bối cảnh của việc xây
dựng hệ thống đánh giá kiểm định chất lượng đại học.
Biểu đồ 1: Tăng trưởng số lượng các trường đại học, học viện[3] Đài Loan
từ năm 1950 – 1990
Thập niên
Trường |
1950 |
1961 |
1971 |
1980 |
1990 |
Đại học |
1 |
8 |
9 |
16 |
21 |
Học viện |
3 |
8 |
14 |
11 |
25 |
Cao đẳng chuyên khoa |
3 |
14 |
73 |
77 |
75 |
Tổng số |
7 |
30 |
96 |
104 |
121 |
Nguồn tư liệu : 林建福(1993:174)
Đánh giá chất lượng đại học ở Đài Loan chủ yếu chịu ảnh hưởng của hai yếu tố là yếu tố nội tại và yếu tố ngoại tại (余玉照,1996):
1. Ảnh hưởng của nhân tố nội tại:
a. Nỗi ưu tư về chất lượng giáo dục : Việc
tăng nhanh số lượng các trường giúp việc tăng cao số lượng sinh viên
vào đại học nhưng cũng làm cho xã hội lo lắng về chất lượng sẽ xuống
cấp. Việc tăng số lượng trường cũng làm cho nguồn kinh phí, thiết bị
không đủ phân phối. Đồng thời cũng làm tăng nhu cầu về số lượng giảng
viên nên kéo theo việc chất lượng giảng viên cũng bị ảnh hưởng.
b. Tinh thần tự quản của tự thân các trường:
Mỗi trường có lý tưởng, mục tiêu, bối cảnh và phong cách riêng nên tự
thân mỗi trường cũng xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng riêng phát
huy tinh thần tự quản của mình nhằm bảo vệ danh tiếng và nhu cầu phát
triển.
c. Chú trọng về trách nhiệm, hiệu suất và thành tích:
Nguồn ngân sách chính phủ dành đầu tư vào các trường đại học không
ngừng gia tăng. Bất luận là kinh phí cho các trường công hay tài trợ
dành cho các trường tư nguồn ngân sách này là rất lớn. Do vậy, các
trường cần phải đạt được thành tích và hiệu suất giảng dạy nhất định
nào đó mới hoàn thành được trách nhiệm của mình đối với chính phủ, xã
hội và người đóng thuế.
d. Điều chỉnh và thu hẹp nguồn ngân sách giáo dục
: Kinh tế không phát triển hay suy trầm sẽ làm cho chính phủ và xã hội
thu hẹp nguồn ngân sách dành cho giáo dục. Lúc đó chính phủ yêu cầu
phải thông qua việc kiểm định đánh giá chất lượng để điều chỉnh phân bố
lại nguồn ngân sách giáo dục dành cho các trường hợp lý và có hiệu quả
sử dụng hơn.
e. Xu thế đa nguyên hóa trường đại học : xu
thế phát triển đa nguyên, đa dạng là động cơ thúc đẩy việc xây dựng
tính đặc sắc của các trường đại học ngày một nâng cao, điều này đã thúc
đẩy các trường đại học tự xây dựng một hệ thống kiểm định đánh giá chất
lượng cho chính mình.
f. Nhu cầu của việc cải cách giáo dục: Một
trong những chủ đề được đưa ra bàn thảo và quyết định tại hội nghị ủy
ban thẩm định cải cách hành chính và hội nghị giáo dục toàn quốc lần
thứ sáu và lần thứ bảy là cần phải xây dựng một hệ thống kiểm định chất
lượng hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
2. Ảnh hưởng nhân tố ngoại tại:
a. Ảnh hưởng của yếu tố chính trị: xu
thế tự chủ và dân chủ trong xã hội đã tác động và hình thành việc mở
rộng cửa và dân chủ trong trường đại học. Đồng thời chính phủ cũng muốn
thông qua cơ chế đánh giá chất lượng để đạt được mục tiêu phát triển
đất nước.
b. Ảnh hưởng của yếu tố xã hội: Tâm lý
“coi trọng bằng cấp” trong xã hội Đài Loan rất mạnh làm cho phụ huynh
cùng với bản thân sinh viên chỉ mong được vào học ở các trường đại học
danh tiếng. Nhưng một số sinh viên khi thi đậu vào trường đại học rồi
lại nảy sinh hiện tượng “mặc tình bay nhảy trong vòng bốn năm” (không
siêng năng học tập), vì muốn điều chỉnh tâm lý và hiện tượng “coi trọng
bằng cấp” này nên cần phải xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng và
bảng xếp hạng các ngành, khoa cũng như thành tích học tập của sinh viên
để công bố cho xã hội và nhân dân nắm vững.
c. Ảnh hưởng của yếu tố kinh tế: Chịu sự
ảnh hưởng của các khái niệm kinh tế như : “hiệu ích”, “hiệu suất”,
“nguồn lợi đầu tư” , “phân bố tài nguyên” nên cần có một hệ thống đánh
giá chất lượng một cách công bình và nghiêm mật để trên cơ sở đó phân
bổ nguồn kinh phí một cách hợp lý nhất.
d. Ảnh hưởng của yếu tố học thuật quốc tế:
Các chương trình giao lưu hợp tác học thuật quốc tế đều được thiết lập
trên cơ sở “đồng đẳng” về học thuật. Do vậy chất lượng học thuật của
các trường đại học trở thành điều kiện rất quan trọng để thực hiện và
mở rộng hợp tác quốc tế.
Hệ thống đánh giá kiểm định chất lượng đại học ở Đài
Loan đã có một quá trình trên 30 năm phát triển. Có thể chia thành hai
hệ thống lớn sau:
· Hệ thống đánh giá kiểm định chất lượng các ngành học chuyên môn
· Hệ thống đánh giá kiểm định chất lượng giảng dạy và công tác hành chính ở các trường đại học (gọi là hiệu vụ).
Đây là nội dung tham cứu chính của bài tham luận
này. Ngoài ra trong những năm gần đây, Đài Loan liên tục tiến hành thực
hiện đánh giá kiểm định chất lượng các mặt khác của giáo dục đại học sẽ
được đề cập ở phần IV của bài tham luận này.
II. Hệ thống đánh giá kiểm định chất lượng các ngành học chuyên môn
Trong thời gian thập niên 1970 là thời kỳ mà nền học
thuật nước Mỹ chú trọng đến thành tích, hiệu suất và trách nhiệm. Khái
niệm kiểm định và đánh giá chất lượng giáo dục ở Mỹ trong thời kỳ này
đã trực tiếp ảnh hưởng đến Đài Loan. Bộ Giáo dục Đài Loan muốn nắm vững
chất lượng giáo dục của các Viện, Khoa và Trường Đại học để làm y cứ
tham khảo khi quyết định cho phép thành lập và cung cấp nguồn kinh phí
nên đã bắt tay tiến hành việc đánh giá kiểm định chất lượng các ngành
học chuyên môn. Việc thực hiện đánh giá kiểm định chất lượng các ngành
học chuyên môn có thể phân thành 3 thời kỳ (蘇錦麗,1997:49-56) là :
1. Thời kỳ từ niên khóa 1975 – 1976 đến niên khóa 1990 – 1991:
Bộ Giáo dục tiến hành thực hiện đánh giá kiểm định chất lượng các ngành học chuyên môn.
Đánh giá kiểm định chất lượng các ngành học chuyên
môn được bắt đầu từ niên khóa 1975 – 1976 đầu tiên là các khoa Toán,
Vật lý, Hóa học, Nha và Y của các trường đại học và chương trình cao
học của 5 ngành này. Đến niên khóa 1976 – 1977 mở rộng thêm ra các Học
viện Nông nghiệp, học viện Công nghiệp, Học viện Y khoa. Tiếp đến các
niên khóa 1977 - 1978 và niên khóa 1978 – 1979 lần lượt đánh giá kiểm
định chất lượng các Học viện Kinh tế, học viện Pháp lý, học viện Nhân
văn và học viện Sư phạm. Để hiểu rõ hơn tình hình tiến triển của các
trường, sau khi đánh giá kiểm định, Bộ Giáo dục liên tục trong các niên
khóa từ 1979 – 1980 đến 1982 – 1983 tổ chức các chương trình công tác
sau đánh giá kiểm định chất lượng. Nhưng trong thời gian này tất cả kết
quả kiểm định chất lượng chỉ cung cấp nội bộ cho các trường được đánh
giá kiểm định mà không công bố ra ngoài.
2. Thời kỳ từ niên khóa 1990 – 1991 đến niên khóa 1994 – 1995:
Bộ Giáo dục ủy thác cho các đoàn thể học thuật
chuyên môn thử nghiệm thực hiện đánh giá kiểm định chất lượng các
ngành học chuyên môn.
Trong hai niên khóa 1983 – 1984 và 1984 – 1985 vì để
tiến hành qui hoạch cải tiến hệ thống đánh giá chất lượng nên Bộ Giáo
dục không thực hiện đánh giá kiểm định còn các niên khóa khác vẫn tiến
hành đánh giá kiểm định các ngành học chuyên môn của các trường đại
học. Niên khóa 1991 – 1992 Bộ lại tạm ngừng công tác đánh giá kiểm định
để nỗ lực qui hoạch và cải tiến công tác đánh giá kiểm định. Nhiều học
giả và chuyên gia cho rằng công tác đánh giá kiểm định chất lượng ngành
học chuyên môn nên ủy thác cho các đoàn thể học thuật có uy tín thực
hiện.
Trải qua thời gian nghiên cứu chuyên môn đã đi đến
kết luận các tổ chức học thuật uy tín thường do các giáo sư đương chức
và học giả trong các trường đại học thành lập vì họ hiểu rõ xu thế phát
triển và trình độ chuyên môn của các lĩnh vực chuyên ngành.
Do đó niên khóa 1992-1993 và 1993-1994 Bộ Giáo dục
dùng phương thức thử nghiệm ủy thác “Học hội công trình điện cơ Trung
Quốc”, “Học hội quản lý khoa học Trung Hoa Dân Quốc”, “Học hội Công
trình cơ giới Trung Quốc” tiến hành đánh giá kiểm định chất lượng các
ngành học chuyên môn liên quan. Tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá kiểm
định đều do các học hội được ủy thác xây dựng và thực hiện.
Kết quả thử nghiệm cho thấy: Giao cho các học hội
thực hiện việc đánh giá kiểm định chất lượng đạt được nhiều thành quả
hơn và phương thức này đáng được khẳng định. Tuy kế hoạch thử nghiệm
đánh giá kiểm định do Bộ Giáo dục đứng ra ủy thác nhưng trên thực tế
các cơ quan chủ quản giáo dục không còn là người trực tiếp đánh giá,
hay là người trực tiếp khống chế qui trình đánh giá. Điều này đã tránh
được tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Trên tổng thể hệ thống đánh
giá kiểm định chất lượng cũng thoát khỏi “vòng kim cô của chính quyền
Trung ương” đây là phương hướng và cách làm đúng cũng phù hợp với xu
hướng chung về hệ thống đánh giá kiểm định chất lượng giáo dục đại học
của các nước tiên tiến.
3/ Từ niên khóa 1994-1995 đến nay: thực hiện việc đánh giá kiểm định chất lượng các ngành học chuyên môn theo luật Đại học [4] .
Năm 1994 tu chỉnh mới “Luật Đại học” và “Hướng dẫn
chi tiết thực thi Luật Đại học” đựợc ban bố. Đây chính là nguồn cơ sở
pháp lý để Bộ Giáo dục làm y cứ thực hiện công tác kiểm định chất
lượng các trường đại học và học viện (廖鴻裕, 2001:69). Do vậy các cơ quan
chủ quản giáo dục đại học đã tích cực thực hiện công tác quy hoạch đánh
giá kiểm định chất lượng đại học, mời các học giả, chuyên gia và hiệu
trưởng các trường đại học, học viện thành lập “Hội đồng tư vấn quy
hoạch”. Năm 1996 hoàn thành “Dự thảo đề án kế hoạch đánh giá kiểm định
chất lượng giáo dục đại học của Bộ Giáo dục”. Trong bản dự thảo này đã
trình bày đầy đủ rõ ràng chi tiết về nền tảng cơ sở y cứ, mục đích,
nguyên tắc, nguồn kinh phí, các điều mục, nội dung thực thi, dự đoán
kết quả của kế hoạch. Hầu mong xây dựng được một hệ thống đánh giá kiểm
định chất lượng giáo dục phù hợp với hoàn cảnh của đất nước
(教育部高等教育司,1996). Để nâng cao tính hoàn thiện của dự thảo đề án, trước
khi đề án được thông qua, Bộ Giáo dục đã tọa đàm về “Đánh giá kiểm định
chất lượng giáo dục đại học”. Đồng thời cũng tổ chức tại 4 vùng địa
phương 4 cuộc tọa đàm “Nhận thức chung về dự thảo đề án kế hoạch đánh
giá kiểm định chất lượng giáo dục đại học của Bộ Giáo dục”. Với mục
đích thông qua việc trao đổi bàn bạc ý kiến giữa các chuyên gia và đại
biểu các trường đại học, học viện để đạt được một nhận thức chung làm
nền tảng cơ sở tham khảo cho việc xây dựng hệ thống đánh giá kiểm định
chất lượng giáo dục đại học (穌錦麗,1997:56).
III/ Đánh giá kiểm định tổng hợp.
Năm 1991 Bộ Giáo dục đề ra bốn phương hướng và chính
sách căn bản về giáo dục đại học để làm nền tảng giúp đỡ các trường đại
học xây dựng chương trình phát triển trung và dài hạn. Bốn phương hướng
chính sách căn bản đó là:
(1) Nguyên tắc giữ vững sự cân bằng về lượng và chất
(2) Củng cố sự phát triển quân bình giữa Nhân văn và Khoa học kỹ thuật
(3) Quy hoạch phát triển nền tảng đặc sắc của các trường Đại học
(4) Phát triển chương trình giáo dục sau đại học (Thạc sĩ, Tiến sĩ)
Dựa trên phương hướng mục tiêu đó, niên khóa
1991-1992, Bộ Giáo dục lần lượt tiến hành "Thẩm tra thực tế kế hoạch
phát triển Trung hạng của trường" của 12 trường Đại học Quốc lập và 24
trường Đại học tư thục và công bố kết quả thẩm tra thực tế, có thể nói
đây là bước mở đầu của đánh giá kiểm định tổng hợp của Đài Loan (廖鴻裕,
2001:70-71). Bộ Giáo dục thực hiện "Thẩm tra thực tế kế hoạch phát
triển trung hạng của trường" bao gồm các nội dung chủ yếu sau
(余玉照,1996):
(1) Tình hình của các khoa, các viện và số lượng sinh viên: qui mô của Khoa, viện, cơ cấu số lượng sinh viên.
(2) Giảng dạy: gồm tỉ lệ số lượng tín chỉ môn
học và số lượng sinh viên chọn học, cơ cấu Giảng viên, tỉ lệ Giảng viên
biên chế có bằng tiến sĩ, ý kiến điều tra của sinh viên đối với tình
hình giảng dạy của giảng viên.
(3) Nghiên cứu: gồm số tài chánh đầu tư cho các kế hoạch nghiên cứu, tỉ lệ Giảng viên được lãnh các giải thưởng.
(4) Mở rộng loại hình đào tạo: số tài chánh thu được và số lượng các lớp tại chức.
(5) Phân tích nguồn tài nguyên giáo dục gồm
bình quân mặt bằng diện tích dành cho mỗi sinh viên, diện tích bình
quân mặt bằng ký túc xá dành cho mỗi sinh viên, tài nguyên thư viện
(gồm lượng sách, báo, tạp chí, kiến trúc xây dựng của thư viện), Giảng
viên (gồm số lượng giảng viên biên chế, thỉnh giảng, văn bằng học vị
học hàm), tỉ lệ sinh viên và giảng viên, Nhân lực chi viện hành chánh
(gồm nhân viên kỷ thuật, bảo vệ, nhân viên, công nhân kỷ thuật, công
nhân lao động và tỉ lệ Giảng viên); Dự toán kinh phí (gồm tỉ suất tăng
trưởng của dự toán, tỉ lệ dự toán chi phí thông thường, dự toán cho mỗi
sinh viên)
1/ Thực hiện kế hoạch phát triển trung hạng của các trường Đại học Tư thục.
a) Giai đoạn một: từ niên khóa 1980-1981 đến niên khóa 1995-1996
Số lượng sinh viên theo học tại các trường Đại học
tư thục ở Đài Loan nhiều hơn số lượng sinh viên theo học tại các trường
Đại học Công lập. Việc đảm bảo chất lượng giáo dục của các trường Đại
học và học viện tư thục luôn là mối quan tâm hàng đầu của quần chúng
nhân dân. Chính phủ ngày càng chú trọng và nâng cao nguồn tài chính
tài trợ cho các trường tư thục, chỉ tiếc vẫn còn thiếu một sách lược
hoàn chỉnh về việc tài trợ tài chính cho hệ thống trường Đại học và học
viện tư thục. Do đó, niên khóa 1989-1990, Bộ Giáo dục thực hiện "tài
trợ khoa viện đặc sắc" dành cho các trường Đại học tư thục. Các trường
xây dựng kế hoạch phát triển đặc sắc của mình nếu thẩm định được thông
qua thì sẽ nhận được nguồn tài trợ về tài chính nhằm mục đích làm cho
các trường phải coi trọng công tác xây dựng qui hoạch phát triển. Đến
niên khóa 1990-1991 mở rộng thành "Tài trợ kế hoạch phát triển trung
hạng 4 năm của các trường Đại học và học viện tư thục". Năm 1991 bắt
đầu thúc đẩy kế hoạch phát triển trung hạn các trường đại học và học
viện tư thục. Chú trọng đến tính chất khác biệt giữa các trường tư
thục, bộ Giáo dục chia các trường thẩm tra thành bốn loại: Đại học Tổng
hợp, Học viện Y Khoa, Học Viện Công nghiệp, học viện nâng cấp[5].
Đoàn thẩm tra thực hiện thẩm tra chủ yếu dùng cách thức so sánh giữa
các trường không cùng loại hình với nhau mà không phải là chú trọng đến
việc so sánh từng trường một với nhau (廖鴻裕, 2001:73 -74)
b) Giai đoạn hai: từ niên khóa 1996-1997 đến nay
Từ niên khóa 1996-1997 có sự điều chỉnh về phương
thức thẩm tra Kế hoạch phát triển trung hạng trường Đại học và học viện
tư thục với chu kỳ thẩm tra là 3 năm. Năm đầu tiên đến phỏng vấn thẩm
tra tại các trường, năm thứ 2 và năm thứ 3 căn cứ vào kết quả thẩm tra
của năm thứ 1 cùng thực tế thực hiện kế hoạch của các trường để tiến
hành khảo sát, thẩm tra. Tiêu chuẩn và tiêu chí khảo sát thẩm tra gồm
lượng hóa và không thể lượng hóa bao trùm các phương tiện giảng dạy,
nghiên cứu, mở rộng loại hình đào tạo, hành chánh tài vụ và hành chánh
nhà trường, kết quả thẩm tra là cơ sở y cứ để phân bổ tiền tài trợ dành
cho các trường Đại học tư thục (王令宜, 2004). Do vậy, về danh nghĩa,
chương trình thẩm tra kế hoạch phát triển trung hạng các trường Đại học
tư thục không gọi là đánh giá kiểm định chất lượng nhưng vì kết quả
thẩm định sẽ ảnh hưởng đến ngân sách tài trợ và nguồn tiền thưởng to
lớn dành cho các trường nêu trên ý nghĩa thực tế nó chính là chương
trình đánh giá kiểm định chất lượng giáo dục các trường Đại học và các
học viện tư thục (秦夢群, 2003)
2/ Thực hiện kế hoạch phát triển trung hạng của các trường Đại học Quốc lập
Niên khóa 1991-1992, Vụ Giáo dục Đại học
tiến hành thẩm tra "Kế hoạch phát triển trung hạng các trường Đại học
Quốc lập" đối với 12 trường Đại học Quốc lập mà vụ quản lý. Tiêu chuẩn
thẩm tra gồm: (1) kết quả số lượng nghiên cứu của giảng viên, (2) nguồn
tài nguyên phân bổ cho sinh viên, (3) nguồn tài nguyên phân bổ cho
giảng viên, (4) giá thành đào tạo dành cho mỗi sinh viên của các
trường, (5) phân tích dự đoán ngân sách của các trường. Bộ giáo dục
tuyên bố kết quả thẩm tra là cơ sở y cứ để phân bổ dự toán ngân sách
dành cho các trường. Do vậy, trên thực tế, "chương trình thẩm tra kế
hoạch phát triển trung hạng các trường Đại học Quốc lập" mang ý nghĩa
của kiểm định đánh giá chất lượng giáo dục (廖鴻裕,2001:72).
IV/ Tình hình thực hiện đánh giá kiểm định các phương diện khác trong những năm gần đây
1/ Đánh giá kiểm định các ngành học chuyên môn
a/ Đánh giá kiểm định các ngành học chuyên môn của các trường Đại học vào 3 năm 1976, 1977 và 1978.
Ba lần đánh giá kiểm định này thuộc về Cải tiến do
Bộ Giáo dục thực hiện mang tính chất nhà nước. Năm 1976, đánh giá kiểm
định của các ngành Toán, Vật Lý, Hóa học, Y học, và Nha khoa của các
khoa chuyên môn về năm ngành học này. Năm 1977, đánh giá kiểm định các
học viện Nông Nghiệp, Công Nghiệp và Y khoa thuộc các trường Đại học [6].
Cả 3 lần đánh giá này đều dùng tiêu chuẩn lượng hóa và kết quả đánh giá
kiểm định chỉ dùng cung cấp cho các trường tham khảo để cải tiến mà
không dùng làm cơ sở căn cứ phân bổ nguồn ngân sách và tài trợ
(葉昱岑,2006:23).
b/ Thẩm tra việc cải tiến của các trường trên cơ sở kết quả đã được đánh giá kiểm định từ năm 1979 đến năm 1982.
Trong giai đoạn này chủ yếu là kiểm tra việc cải
tiến của các trường sau khi đã được đánh giá kiểm định của tất cả các
khoa, viện thuộc các trường Đại học, mục đích để hiểu rõ về tình hình
cải tiến của các khoa, viện trong các trường Đại học. Tiêu chuẩn đánh
giá kiểm định vẫn như các lần đánh giá trước (.葉昱岑,2006:23)
c/ Đánh giá kiểm định chất lượng các ngành học chuyên môn của các trường Đại học từ năm 1988 đến 1990.
Trong giai đoạn này, Bộ Giáo dục tiến hành đánh giá
kiểm định các trường Đại học và Học viện Sư phạm theo từng niên khóa,
mục đích và tiêu chuẩn đánh giá giống với 3 lần đánh giá đầu tiên
(1976, 1977 và 1978) nhưng kết quả đánh giá của giai đoạn này ngoài
cung cấp cho các trường để cải tiến và còn là cơ sở tham khảo để đề ra
các quyết sách hành chánh của Bộ Giáo dục (葉昱岑,2006:23).
d/ Đánh giá kiểm định chất lượng ngành học chuyên môn năm 1994
Từ năm 1944, bước vào giai đoạn Bộ giáo dục ủy thác
các hội đoàn quản lý học thuật tiến hành kiểm định đánh giá các ngành
học chuyên môn của các trường Đại học. Đối tượng đánh giá kiểm định lần
này là các Khoa, Viện thuộc các ngành Điện cơ, Quản lý, Cơ khí của các
trường Đại học. Tiêu chuẩn đánh giá chủ yếu là lượng hóa, kết quả đánh
giá làm cơ sở tham khảo để đề ra các quyết sách về hành chánh
(葉昱岑,2006:24)
e/ Đánh giá kiểm định chất lượng các ngành thuộc Đại học Đại cương năm 1998
Năm 1998, ủy thác cho Hội học Giáo dục Đại
cương Trung Hoa dân quốc tiến hành khảo sát thực tế thẩm tra và đánh
giá kiểm định (王令宜, 2004:84) chuyên ngành Đại học Đại cương của các
trường Đại học với tiêu chuẩn đánh giá quân bình cả lượng và chất, kết
quả đánh giá kiểm định nhằm giúp nâng cao trình độ, thành tích và hiệu
suất của ngành giáo dục Đại học Đại cương của các trường Đại học
(葉昱岑,2006:24)
g/ Đánh giá kiểm định ngành học chuyên
môn Học viện Y khoa năm 2000, học viện quản lý năm 2002, ngành hóa học
năm 2003 của các trường Đại học.
Bắt đầu từ năm 2000, "Ủy Ban đánh giá
kiểm định chất lượng Y học Đài Loan" thực hiện việc đánh giá kiểm định
định kỳ các khoa Y thuộc tất cả các trường Đại học Đài Loan (王令宜.,
2004:84)
Năm 2002, Bộ Giáo dục ủy thác cho "Học
hội quản lý Khoa học Trung Hoa Dân Quốc” thực hiện đánh giá chất lượng
chuyên ngành thuộc các học viện Quản lý của các trường Đại học (王令宜,
2004:84)
Năm 2003, Bộ Giáo dục ủy thác cho "Học
hội Hóa học Trung Quốc" tiến hành đánh giá kiểm định chất lượng các
ngành khoa hóa học các trường Đại học.
h/ Đánh giá kiểm định chất lượng Trung tâm Bồi dưỡng Giảng Viên của các trường Đại học và Học viện
Sau khi "luật bồi dưỡng Giáo viên" được
ban hành, Bộ Giáo dục để phối hợp việc mở rộng việc thẩm tra chương
trình Bồi dưỡng Sư phạm Giáo viên của tất cả các trường Đại học và học
viện đã lần lượt tiến hành 4 kỳ "thẩm tra kế hoạch chương trình Bồi
dưỡng Sư phạm Giáo viên của các cơ quan Bồi dưỡng Giáo viên" vào các
năm 1996, 1999, 2000 và 2005. Trong đó, năm 2005 là năm đầu tiên áp
dụng chính sách "Rút khỏi thị trường" những đơn vị bị đánh giá thuộc
hạng "Tam Đẳng" thì năm sau phải lập tức ngừng việc chiêu sinh.
i/ Đánh giá kiểm định chất lượng các Khoa, viện [7] trong các trường Đại học và học viện
Bộ Giáo dục uỷ thác cho " Tài đoàn pháp
nhân Trung Tâm đánh giá kiểm định chất lượng Đại học cơ kim hội" thực
hiện kế hoạch Đánh giá kiểm định chất lượng các Khoa, viện của các
trường Đại học. Đây là lần đầu lấy Khoa, Viện làm đơn vị để tiến hành
đánh giá kiểm định chất lượng Đại học. Dự tính từ năm 2006 đến năm 2010
mỗi chu kỳ là 5 năm thực hiện đánh giá kiểm định chất lượng tổng cộng
hơn hai nghìn khoa, sở của 78 trường Đại học và học viện (không tính
các trường, viện kỹ thuật nghể [8]) (陳曼玲, 2006:11). Qui trình đánh giá cơ bản theo biểu đồ sau:
Sơ đồ 1: Quy trình đánh giá kiểm định các khoa viện của các trường đại học (lấy niên khóa 2006-2007 làm ví dụ)
Giai đoạn công tác chuẩn bị của Trung tâm đánh giá kiểm định
(tháng 1 năm 2006 đến tháng 3 năm 2006) |