Chương VIII
TẬP LUYỆN VỀ SỰ QUÁN THẤY SÂU XA
Trong phần dưới đây chúng ta thử tìm hiểu chi tiết hơn
các kỹ thuật luyện tập về sự quán thấy sâu xa đã được nhiều vị thầy khai triển
về sau này, bởi vì thật ra thì trước đó Đức Phật không hề nêu lên các kỹ thuật ấy.
Các phép tập luyện này cốt dành cho những người thuộc các cấp bậc còn khá kém,
chưa đủ khả năng tự mình quán thấy một cách tự nhiên khía cạnh bất toại nguyện
của sự hiện hữu trong thế gian này. Dầu sao thì đấy cũng không có nghĩa là các
phép luyện tập trên đây sẽ đương nhiên mang lại các kết quả trội hơn so với các
phương pháp luyện tập tự nhiên. Thật vậy trong Tam Tạng Kinh chỉ thấy duy nhất nêu
lên phương pháp tự nhiên mà thôi. Dù sao thì cũng có một số người cho rằng sự
quán thấy sâu xa chỉ có thể đạt được bởi những người đã thực hiện được một thể
dạng đạo hạnh hoặc có sẵn một khả năng thiên phú nào đó, và đối với những người
đặc biệt này thì sự kiện hiểu được toàn vẹn các vật thể chỉ là một trò chơi của
trẻ con. Vậy đối với những người không có được khả năng siêu nhiên ấy thì phải
làm thế nào bây giờ? Chính vì lý do đó mà các vị thầy đã triển khai các kỹ thuật
luyện tập tuần tự nhằm vào mục đích giúp họ, đấy là những bài giảng rất sáng sủa,
chính xác và đầy đủ từ đầu đến cuối, và có thể mang ra áp dụng ngay từng bước một,
tất nhiên là có quy củ và phải chuyên cần (ta có thể
nhờ vào sự cố gắng và trí thông minh tự nhiên để phát huy trí tuệ hầu giúp mình
quán thấy được bản chất của mọi vật thể, thế nhưng đối với một số người khác
thì có thể họ gặp phải một vài khó khăn nào đó khi bắt tâm thức phải tập trung và
làm việc, dó đó các vị thầy đã đưa ra một phương pháp tuần tự và chi tiết giúp
các người này thăng tiến từng bước một).
Các
phép tập luyện trên đây nhằm mục đích phát huy sự quán thấy sâu xa và hiện nay
được gọi là vipassanâ-dhura (tức là thiền minh sát, vipassanâ có nghĩa là nhìn các
vật thể đúng như thế, dhura có nghĩa là sự vận hành hay chuyên chở). Vipassanâ-dhura
là một phép luyện tập đối nghịch lại với sự học hỏi trong sách vở (gantha-dhura, gantha có nghĩa là sách vở), tuy nhiên ngày nay cả hai phép luyện tập trên đây
được xem như là các phương tiện góp phần bổ túc chung cho việc giảng dạy. Vipassanâ-dhura là cách học hỏi bằng
kinh nghiệm nội tâm, đấy là một sự luyện tập tâm thức không nhất thiết cần đến
sách vở. Cả hai thuật ngữ trên đây (vipassanâ-dhura và gantha-dura) đều không hề được nêu lên trong Tam Tạng Kinh, mà chỉ
thấy xuất hiện trong các văn bản mới sau này mà thôi. Tuy nhiên không phải vì
thế mà vipassanâ-dhura không phải là
một phép luyện tập đích thật của Phật giáo, tức có nghĩa là dành cho những ai
mong cầu tìm thấy sự giải thoát khỏi mọi khổ đau. Phép luyện tập này được trực
tiếp khai triển dựa vào sự tập trung và phép nội quán (instrospection - tức là cách nhìn ngược vào tâm thức
mình để phân tích và tìm hiểu các hiện tượng) thật kiên trì. Các vị thầy xưa có nêu lên một số tiêu
đề liên quan đến việc tập luyện vipassanâ
như sau:
- Cơ sở hay nền tảng của vipassanâ là gì?
- Vipassanâ
được nhận biết nhờ vào các đặc điểm nào?
- Sự vận hành đích thật của cái được gọi là vipassanâ là gì?
- Kết quả tối hậu của vipassanâ
là gì?
Đối với câu hỏi thứ nhất liên quan đến nền tảng
của vipassanâ thì lời giải đáp sẽ là:
đạo đức và sự tập trung. "Vipassanâ"
có nghĩa là "sự tập trung sâu
xa" và tức là một sự quán thấy minh bạch hiển hiện lên trong một tâm
thức hân hoan và đã loại bỏ được tất cả mọi ô nhiễm. Niềm hân hoan đó chỉ có thể
phát sinh khi nào thực hiện được sự tinh khiết đạo đức (sîla-visuddhi), vì thế cần phải tạo được cho mình một căn bản đạo đức
và thực hiện được một thái độ lành mạnh và lương thiện. Điều này được ghi trong
kinh điển hẳn hoi (kinh Rathavinîta-Sutta,
Majjhima Nikâya, 24) và được mô tả
như một phép luyện tập gồm nhiều giai đoạn liên tiếp nhau gọi là "bảy phép
tinh khiết hóa" mà cấp bậc cao nhất sẽ tương quan với Con Đường và Quả (sự viên mãn). Các vị thầy xếp sự tinh khiết hóa đạo đức (tu giới) vào cấp bậc thấp nhất trong số bảy cấp bậc. Đấy là cách tạo cho mình một
thái độ hoàn hảo không chê trách được và đấy là những gì thật cần thiết giúp thực
hiện sự tinh khiết hóa tâm thức (citta-visuddhi).
Thể dạng đạo đức trên đây chỉ có thể đạt được khi nào tâm thức loại bỏ được tất
cả mọi thứ ô nhiễm và tinh khiết hóa được các tư duy (ditthi-visuddhi) khiến cho mọi sự hiểu biết sai lầm theo đó cũng phải
chấm dứt. Sự giải thoát đó sẽ giúp phát hiện sự tinh khiết mang lại từ sự chấm
dứt mọi nghi ngờ (kankhâvitarana-visuddhi),
sự tinh khiết này lại giúp hiển hiện lên sự tinh khiết phát sinh từ sự hiểu biết
và quán thấy được con đường nên bước theo và con đường phải tránh (maggâ-magga-nânadassana-visuddhi). Sự hiểu
biết về Con Đường như vừa nêu lên lại tiếp tục đưa đến sự tinh khiết bằng sự hiểu
biết và quán thấy sự thăng tiến suốt trên Con Đường (patipadâ-nânadassana-visuddhi). Vào giai đoạn này thì sự quán thấy
sâu xa sẽ trở nên toàn diện hơn và mang tính cách trực giác: đấy chính là thể dạng
tinh khiết đích thật của sự hiểu biết và quán thấy (nânadassana-visuddhi) và đấy cũng là sự hoàn thiện của Con Đường Bát
Chánh. Khi bắt đầu bước vào Con Đường thì cũng sẽ tự động đạt được ngay Quả của
nó, và khi nào đạt được Con Đường (sự viên mãn) thì cũng có thể xem như là đã đạt được điểm tột đỉnh
của sự luyện tập (đại sư Buddhadhasa luôn quan niệm rằng tất
cả đều đạt được ngay, khi mới khởi sự tu tập thì cũng đã đạt được kết quả dù rất
thấp, sau đó khi đã đi hết Con Đường thì sẽ đạt được sự viên mãn cuối cùng và
cao nhất).
Tinh
khiết đạo đức tượng trưng cho một thái độ không thể chê trách được đối với tất
cả những gì liên quan đến thân xác (hành động) và ngôn từ. Khi nào vẫn còn có thể phạm vào một chút
sai trái dù thật nhỏ nhoi trong cách hành xử qua thân xác (hành động)
hay ngôn từ, thì khi đó vẫn có thể cho rằng chưa đạt
được đạo đức hay "giới luật" đúng với ý nghĩa của nó. Trái lại khi nào
đạo đức được giữ gìn toàn vẹn
thì cũng có nghĩa là đã đạt được sự thanh thản trong hành động và ngôn
từ, kết quả mang lại là một thể dạng bình lặng. Tiếp theo đó thể dạng
này sẽ đưa đến các giai đoạn khác của sự tinh khiết hóa gồm có: sự chấm
dứt
tình trạng thiếu hiểu biết, sự chấm dứt mọi nghi ngờ (hoang mang), nhìn thấy được Con Đường nào phải theo và con đường nào không nên bước
vào, hiểu biết và quán thấy được quá trình thăng tiến trên Con Đường, và sau hết
là sự quán thấy sâu xa và toàn vẹn bằng trực giác. Đấy là năm giai đoạn biểu trưng
cho phép luyện tập vipassanâ đúng với
ý nghĩa đích thật của nó. Sự tinh khiết đạo đức và tinh khiết tâm thức đơn giản
chỉ là cánh cửa để mở vào con đường vipassanâ.
Tóm
lược về bảy phép tinh khiết hóa (I đến VII), năm giai đoạn của Vipassanâ
(1 đến 5) và
chín giai đoạn hoàn thiện của sự hiểu biết (a đến i)
I. Sự tinh khiết đạo đức (giới)
II. Sự tinh khiết tâm thần (định)
III. 1) Sự chấm dứt các tư duy sai lầm
IV. 2) Sự chấm dứt mọi nghi ngờ
V.
3) Sự hiểu biết và quán thấy Con Đường
VI. 4) Sự hiểu biết và quán thấy quá trình thăng
tiến trên Con Đường:
(a):
Ý thức sự khởi đầu và sự chấm dứt của các hiện tượng (b): Ý thức sự chấm
dứt của các hiện tượng
(c):
Ý thức được sự sợ hãi
(d):
Ý thức được sự nguy hiểm
(e):
Sự tỉnh ngộ (vỡ mộng)
(f):
Ham muốn được giải thoát
(g):
Nỗ lực để tự giải thoát
(h):
Quyết tâm vững chắc
(i):
Khả năng hiểu biết Bốn Sự Thật Cao Quý
VII. 5) Sự quán thấy sâu xa, toàn vẹn và bằng trực
giác (tuệ)
Muốn đạt
được sự tinh khiết hóa vượt thoát khỏi sự
hiểu biết sai lầm về các sự vật thì phải loại bỏ được tất cả các ý nghĩ sai
lầm, dù đấy là các ý nghĩ nội tại hay thu đạt được, gồm các sự tin tưởng phi lý
vào ma thuật và các ý nghĩ sai lầm về bản chất đích thật của mọi hiện tượng. Chẳng
hạn như xem thân xác và tâm thức là những thứ bền vững, quan trọng, hay là một
"cái ngã", hoặc xem đấy là một con thú hay một con người thuộc cõi
thiên hay là thần thánh, mang tính cách kỳ diệu hay thiêng liêng. Không chịu chấp
nhận đấy chỉ là một sự cấu hợp đơn giản của bốn thành phần (tứ đại), hoặc đơn giản chỉ là một thân xác và một tâm thức, hoặc ngược lại thì
lại xem đấy là một "cái tôi" và trong đó hàm chứa một "linh hồn"
có thể xuất ra và nhập vào. Không nhìn thấy đấy chỉ là năm thứ cấu hợp: thân xác
(sắc), giác cảm và sự cảm nhận (thụ), sự nhận thức (tưởng), tư duy tích cực (hành) và tri thức giác
cảm (thức - consciousness). Không nhìn thấy được đấy chỉ là một tổng hợp kết nạp
các sự nhận thức tiếp nhận được từ mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân xác và tâm thức.
Các
khái niệm sai lầm sẽ đưa đến sự tin tưởng vào ma thuật và các vật thiêng liêng,
các thứ ấy là nguồn gốc làm phát sinh ra sự sợ hãi. Nghi thức và lễ lạc theo đó
mà được bày ra nhằm để hóa giải sự sợ hãi, và hậu quả mang lại là sự bám víu
vào các thứ nghi thức và lễ lạc ấy - tóm lại tất cả các thứ ấy sở dĩ phát sinh
chẳng qua là do các khái niệm sai lầm mà ra cả. Tình trạng đó cho thấy là tư
duy không phải là những thứ hoàn hảo gì cho lắm. Từ bỏ được các ý nghĩ sai lầm
có nghĩa là đạt được thể dạng mà trước đây (kinh sách
xưa) gọi là "cấp
bậc thứ ba của sự tinh khiết hóa" và các vị thầy gần đây hơn thì gọi đấy
là giai đoạn đầu tiên của vipassanâ.
Thể dạng tinh khiết hóa giúp loại bỏ được sự
nghi ngờ phát sinh từ phép nội quán hướng vào các nguyên nhân. Khi loại bỏ
được các ý nghĩ sai lầm thì sẽ nhận thấy chính mình chỉ là một sự kết hợp gồm
thân xác và tâm thức. Loại bỏ được sự nghi ngờ có nghĩa là nhận biết được bản
chất của các nguyên nhân (nghiệp) làm phát sinh ra sự hiện hữu của tổng thể
thân-xác-tâm-thức, và ta sẽ nhìn thấy thật sâu xa và thật chi tiết sự hiển hiện
của vô minh, thèm muốn, bám víu, nghiệp, sự tìm kiếm "thức ăn",
v.v... cũng như sự tương tác của chúng, tất cả những thứ cấu tạo ra thân xác và
tâm thức. Loại bỏ được mọi sự nghi ngờ đơn giản là kết quả mang lại từ sự hiểu
biết minh bạch về nguyên nhân và hậu quả của tất cả mọi vật thể. Đối với phép
luyện tập vipassanâ thì các vị thầy cho
biết là có hai mươi chín hoặc ba mươi thứ nghi ngờ, thế nhưng sau khi nghĩ kỹ
thì cũng chỉ cần tóm lược bằng một câu hỏi duy nhất như sau cũng đủ để tượng trưng
cho tất cả: "cái ngã" của tôi có hiện hữu hay không, nó đã từng hiện
hữu trước đây hay không, và sau này nó có còn tiếp tục hiện hữu nữa hay không,
và nếu có thì nó phải hiện hữu bằng cách nào? Phương pháp duy nhất làm tan biến
vĩnh viễn sự nghi ngờ đó là cách nhận biết được là không có "cái
ngã", đơn giản đấy chỉ là một sự kết hợp của nhiều nhân tố, gồm các cấu hợp
đủ loại, một hệ thống thần kinh pha trộn với vô minh, sự thèm muốn, bám víu,
nghiệp, thêm vào đó "thức ăn", v.v... Chính là nhờ vào sự kiện không
hề có "cái tôi" cho nên người ta mới có thể loại bỏ được ý nghĩ mơ hồ cho rằng "tôi là, tôi
đã, tôi sẽ" (các chữ
ý nghĩ
mơ hồ là dịch theo ấn bản tiếng Pháp, trong bản
tiếng Anh thì là foolish idea, có
nghĩa là ý nghĩ dại dột hay ngu xuẩn. Thật ra thì câu này có thể hiểu là: nếu
"cái tôi" thật sự hiện hữu - tức có thật - thì làm thế nào mà ta có
thể loại bỏ được nó).
Khi đã hoàn toàn loại trừ được mọi nghi ngờ thì sẽ đạt được giai đoạn thứ hai của
phép luyện tập vipassanâ. Dù sao điều
đó cũng không có nghĩa là đã dứt bỏ vĩnh viễn được ảo giác về "cái tôi"
vì nó vẫn còn lưu lại một số tàn tích nào đó. Tuy nhiên một sự hiểu biết minh bạch
về cách tương tác giữa các nguyên nhân cũng có thể làm tan biến mọi sự hoài
nghi và loại bỏ được ý nghĩ về "cái tôi" dưới các hình thức thô thiển
nhất (câu này rất cô đọng, sự tương tác giữa các
nguyên nhân có thể hiểu như là sự liên kết giữa thân xác, các xu hướng trong
tâm thức, nghiệp trong quá khứ, cơ duyên hiện tại..., tất cả sự phức tạp đó tạo
ra ảo giác là hình như có một "cái tôi" chỉ huy hay hàm chứa trong
cái tổng thể kết hợp hỗn tạp tạo ra một cá thể con người).
Khi nào
vượt thoát khỏi sự nghi ngờ thì khi đó ta mới có thể nghĩ đến việc tinh khiết hóa
giúp phân biệt được con đường đúng phải
theo và con đường sai không nên bước vào. Cũng phải nói là có thật nhiều
chướng ngại xảy ra ngăn chận quá trình thăng tiến trên đây, đấy là những thứ chướng
ngại thường thấy xuất hiện trong khi tập luyện vipassanâ. Tình trạng tập trung tâm thức có thể làm phát sinh ra
nhiều hiện tượng lạ lùng có thể tác động mạnh đến người hành thiền, chẳng hạn
như những vầng ánh sáng tuyệt vời hiển hiện ra với con mắt nội tâm (hai mắt vật chất thì khép lại hoặc nửa khép nửa mở và
không "nhìn thấy" gì cả). Nếu một người hành thiền bám ngay vào đấy và nghĩ rằng đấy là "kết
quả do phép luyện tập vipassanâ mang
lại", hoặc cảm thấy tự mãn và nghĩ rằng: "đây quả đúng là một điều kỳ
diệu thật phù hợp với tôi", thì sẽ dễ gặp nguy cơ tạo ra cho mình sự bế tắc,
khiến không thể tiếp tục được phần còn lại của Con Đường và Quả. Chính vì lý do
đó mà các vị thầy xem đấy là một sự lệch lạc, một ngõ cụt. Ngoài ra còn có những
thứ lệch lạc khác nữa, chẳng hạn như cảm thấy sự hân hoan tràn ngập và đồng thời
thì tâm thức bị sự toại nguyện xâm chiếm quá mạnh khiến cho nó không còn phát động
được sự nội quán nữa, và người hành thiền vội vã kết luận ngay rằng đấy
"quả đúng là Niết-bàn rồi, đúng là nó đã xảy ra tại nơi này và ngay trong
lúc này". Thật ra thì đấy chỉ là tình trạng con đường đang bị tắc nghẽn
khiến cho mình không còn có thể thực hiện được một sự thăng tiến nào nữa. Các vị
thầy bảo rằng ngay cả sự quán thấy minh bạch về bản chất của thân xác và tâm thức
cũng có thể khiến cho người hành thiền tự mãn và tạo ra ảo giác là mình đã đạt
được một cấp bậc cao về sự hiểu biết tâm linh, và tình trạng ấy có thể khiến
cho người hành thiền trở nên quá tự tin. Đấy cũng là một hình thức cản trở khác
ngăn chận sự thăng tiến trong khi luyện tập vipassanâ.
Ngoài ra cũng thường thấy xảy ra trường hợp mà người hành thiền lợi dụng khả
năng thực hiện được để biến thân xác mình trở thành cứng đơ và tri thức thì mất
hết khả năng cần thiết để thực hiện phép nội quán. Đấy là một thứ trở ngại rất
khó loại bỏ vì thông thường người hành thiền rất thích thú với thể dạng đó và
xem đấy như là một khả năng siêu nhiên, và có thể còn xem đấy như là Quả của
Con Đường. Thật ra thì đấy chỉ tượng trưng cho những gì thật đáng ái ngại.
Một
trường hợp khác cũng thường hay xảy ra, đấy là sự xuất hiện của một thể dạng cực
lạc (béatitude - blissful rapture - đại phúc hạnh) mà người hành thiền chưa bao giờ cảm thấy trước đó. Sự kiện này trước hết
tạo ra cho người hành thiền một sự kinh ngạc và bất ngờ, và sau đó thì có thể
mang lại cho người này một sự tự mãn hoàn toàn không căn cứ. Nếu tình trạng cực
lạc đó kéo dài thì thân xác và tâm thức của người hành thiền sẽ rơi vào một thể
dạng an vui sâu xa, tất cả các khó khăn cũng theo đó mà tan biến. Tất cả những
gì mà trước đây người hành thiền thích hoặc không thích vụt trở thành khác đi
khi nghĩ đến chúng. Đồng thời những gì trước đây từng làm cho người hành thiền
sợ hãi, lo âu, kinh hoàng và bồn chồn cũng sẽ không còn tạo ra một tác động nào
nữa. Tình trạng như vừa kể khiến cho người hành thiền ngỡ rằng mình đã đạt được
sự giải thoát khỏi các thứ nọc độc tâm thần. Khi nào còn vướng mắc trong tình
trạng đó thì người hành thiền vẫn còn cứ ngỡ rằng mình đã thực hiện được tất cả
các đặc tính của một cá thể đã đạt được sự viên mãn thật sự. Thế nhưng trên thực
tế thì sự thỏa mãn phát sinh từ thể dạng đó chỉ là một thứ trở ngại ngăn chận sự
thăng tiến trên đường luyện tập vipassanâ.
Dù sao thì sau đó thể dạng này cũng sẽ dần dần phai mờ đi khiến cho người hành
thiền quay trở lại tình trạng thèm muốn các vật thể như trước, hoặc không còn
thèm muốn gì cả, thậm chí tình trạng chung có thể trở nên trầm trọng hơn trước
kia nữa.
Ngoài
ra còn một trở ngại khác nữa phát sinh từ sự tin tưởng quá mạnh, một lòng tin
mà trước đó người hành thiền chưa bao giờ có: đấy là lòng tin nơi Tam Bảo - Phật,
Pháp và Tăng Đoàn - hay vào một số lý thuyết nào đó (những chuyện
tưởng tượng và không thực)
mà người hành thiền tự sáng chế ra. Ngoài ra người hành thiền cũng có thể cảm thấy
một sự hài lòng thật cao độ đối với Đạo Pháp (Dhamma). Hơn nữa khả năng giữ cho mình không bám víu vào tất cả mọi
thứ cũng có thể trở nên rất mạnh và vụt khiến cho người hành thiền nghĩ rằng
mình đã đạt được Con Đường và Quả, hoặc cũng có thể nghĩ rằng đấy chính là Niết-bàn.
Các hiện tượng đó là những khó khăn lớn lao đối với những người lần đầu gặp phải
tình trạng này. Cho đến khi nào chưa hội đủ khả năng để loại bỏ hoàn toàn những
thứ ô nhiễm tinh tế đó thì người hành thiền vẫn có thể cứ nghĩ rằng đấy là những
gì thích hợp với mình. Cho đến khi nào ý thức được những thứ cảm nhận ấy chỉ là
các chướng ngại thì lúc đó người hành thiền mới bắt đầu nhận thấy được Con Đường
đích thật và những gì không đúng. Sự hiểu biết đó tượng trưng cho giai đoạn thứ
ba của phép luyện tập vipassanâ và thể
dạng tinh khiết hóa thứ năm.
Trong
khi thực hiện các giai đoan trên đây người tu tập cũng phải cẩn thận, không nên
dây dưa đến các con đường khác bên cạnh (chúng ta đều
hiểu rằng tu tập gồm có nhiều phương pháp khác nhau hầu thích hợp cho từng người,
các con đường bên cạnh không hẳn là các con đường sai, thế nhưng vướng vào đấy
có thể gây ra hoang mang. Dầu sao thì tất cả cũng chỉ là những phương tiện thiện
xảo - upaya, người tu tập phải luôn hướng vào trí tuệ, và con đường đang được đại
sư Buddhadasa trình bày là một trong những con đường ngắn nhất và trực tiếp nhất
để phát huy phẩm tính đó).
Tuy nhiên, khi nào đã nhận biết được Con
Đường đúng đắn, thì người hành thiền cũng sẽ nhận thấy những khám phá mà mình
sẽ thực hiện được sau này cũng sẽ tiếp tục theo nhau mà xuất hiện trên Con Đường
đó. Sự hiểu biết về Con Đường sẽ dần dần được khai triển thêm và mang lại một sự
thông hiểu hoàn toàn minh bạch về bản thể đích thật của mọi sự vật, và sau cùng
là đưa đến một thể dạng buông xả (không bám víu) và một sự tự chủ hoàn toàn đối với các sự vật. Đối với
tâm thức thì nhờ vào sự hiểu biết đó, nó sẽ đạt được sự quán thấy sâu xa về Bốn
Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế). Người ta gọi đấy là thể dạng tinh khiết phát sinh từ
sự hiểu biết và quán thấy được quá trình thăng tiến trên Con Đường. Đấy là giai
đoạn thứ tư của phép luyện tập vipassanâ
và là thể dạng tinh khiết hóa thứ sáu. Tam Tạng Kinh không hề nêu lên một chi
tiết nào về quá trình thăng tiến trên đây, tuy nhiên về sau này thì có một số
các vị thầy đã phân chia quá trình ấy thành các giai đoạn như sau (tức chín giai đoạn hoàn thiện của sự hiểu biết và có
thể xem đấy là chín giai đoạn của sự phát triển trí tuệ):
a) Khi người tu tập bắt đầu đạt được một sự thăng tiến
đúng đắn trên đường luyện tập vipassanâ
thì khi đó sẽ có thể hiểu được một cách sâu xa hơn và chi tiết hơn các hiện tượng
liên hệ đến sự sinh, sự già nua, khổ đau và cái chết của tất cả mọi vật thể, có
thể quán thấy được hoàn toàn sự khởi đầu cũng như sự chấm dứt của tất cả mọi hiện
tượng. Tất cả mọi sự hiện hữu dưới hình thức hiện tượng (tức những gì hiển hiện lên và thuộc vào tất cả mọi
lãnh vực, từ vật-chất đến phi-vật-chất, thuộc nội tâm cũng như ngoại cảnh) đều sẽ được đơn giản nhận biết một cách minh bạch như
là một quá trình bất tận của sự sinh và cái chết, của sự khởi đầu và chấm dứt,
như ánh sáng lấp lánh trên mặt biển hay như những gợn sóng nhấp nhô và tỏa rộng.
Đấy là những gì mà người ta gọi là "sự hiểu biết về sự khởi đầu và sự chấm
dứt" (udayabbayâ-mupassanâ-nâna).
Sự hiểu biết đó phát sinh từ phép nội quán thật sắc bén, minh bạch và bền vững,
đến độ có thể giúp đạt được sự hiểu biết vững chắc, tương tự như một thứ màu
nhuộm ăn sâu vào tâm thức, và đủ mạnh để tạo ra cho người hành thiền sự tỉnh ngộ
(tức vỡ mộng) đối
với các vật thể và mang lại sự chấm dứt của mọi sự bám víu. Đấy là giai đoạn thứ
nhất của sự hiểu biết (trí tuệ) và quán thấy quá trình của sự thăng tiến trên Con Đường.
b) Nếu sự khởi đầu và sự chấm dứt của mọi hiện tượng
được quán thấy cùng một lúc (chẳng hạn như nhìn thấy một người nào đó
thì cũng nhận thấy ngay cùng một lúc sự sinh và cái chết của người ấy), và như thế sẽ không còn thể nào nhận ra được một cách
minh bạch hai thể dạng đó như trước đây nữa khi ta tập trung để nhìn chúng một
cách riêng rẽ (thí dụ ta nhìn thấy sự sinh và cái chết của
một người mà ta đang quan sát "dính liền" với nhau thì ta sẽ không còn
thể nào nhìn thấy được người ấy mang dáng dấp trẻ đẹp hay già nua, dễ thương
hay đáng ghét ở giữa sự sinh và cái chết, kể cả hai thể dạng này cũng không còn
nhận ra được chúng một cách riêng rẽ). Trong giai đoạn này, người hành thiền có thể không cần
quan tâm đến thể dạng khởi đầu mà chỉ nhất thiết dồn sự tập trung vào thể dạng
chấm dứt. Điều này sẽ giúp nhìn thấy quá trình tan rã và biến mất với một cường
độ và một chiều sâu cực mạnh, đến độ dù cho hướng mắt để nhìn vào bất cứ thứ gì
thì cũng đều nhận thấy đấy chỉ toàn là sự hư hủy và cái chết mang tính cách thật
bao quát và toàn cầu (ta cảm thấy tất cả những gì chung quanh ta
đều đang suy thoái và bị hủy hoại, những gì ta nghĩ là đang hình thành thế
nhưng thật ra thì chúng cũng đều nằm chung trong một quá trình duy nhất là sự
hư hoại và tan rã).
Khi tâm thức khám phá ra được điều đó và duy trì bền vững được cách nhìn ấy thì
tâm thức cũng sẽ đạt được thêm một sự hiểu biết mới nữa gọi là "sự hiểu biết
về sự hư hủy và tan biến" (bhangânupassanâ-nâna).
Đấy là giai đoạn phát triển thứ hai của sự hiểu biết.
c)
Khi sự hiểu biết về sự hư hủy và tan biến đã được phát triển đầy đủ thì sẽ giúp
để ý thức được là tất cả mọi thứ đều đáng sợ. Tất cả mọi sự hiện hữu, dù thuộc
lãnh vực giác cảm, hình tướng (vật chất) hay phi-hình-tuớng (hiện tượng
tâm thần), phải được nhìn
như vô cùng kinh khiếp, bởi vì ta sẽ cảm nhận được sự hư hủy và tan biến của chúng
đang xảy ra trong từng giây phút một. Bất cứ ai khi đã cảm nhận được sự kiện đó
thì một sự nhận thức cực mạnh cũng sẽ phát sinh trong tâm thức của người ấy và
nó sẽ biến thành một sự sợ hãi thật sự. Tất cả mọi sự vật hiển hiện ra thật
kinh khiếp tương tự một liều thuốc độc, một thứ khí giới giết người, hoặc như một
toán giặc cướp hung tợn với đầy đủ khí giới. Toàn thể ba cảnh giới hiện hữu (tam giới: sắc giới, dục giới và vô sắc giới) đều trở thành đối tượng của sự sợ hãi. Ý thức được lợi ích của sự sợ hãi đối với tất cả
các hiện tượng (bhayatupatthana-nâna)
được xem như giai đoạn thứ ba (của sự hiểu biết hay trí tuệ).
d)
Khi nào sự ý thức về bản chất vô cùng sợ hãi đối với tất cả mọi sự hiện hữu dưới
hình thức hiện tượng được hoàn toàn phát triển thì khi đó ta cũng sẽ ý thức được
là từ bản chất, tất cả mọi sự vật đều nguy hiểm, tương tự như một khu rừng đầy thú
dữ, và nếu muốn tìm kiếm các thú vui trong khu rừng đó thì nhất định sẽ chẳng tìm
thấy được bất cứ một gì thích thú. Tình trạng ý thức đó về sự sợ hãi tất yếu (âdînavanupassana-nâna) nơi mọi sự hiện hữu
dưới hình thức hiện tượng là giai đoạn thứ tư.
e)
Khi tất cả mọi thứ được cảm nhận như những gì hoàn toàn nguy hiểm trên mọi mặt
thì sự tỉnh ngộ (thức tỉnh, vỡ mộng, hết mê muội) sẽ đến. Tất cả sẽ tương tự như một căn nhà bốc cháy và
chỉ còn để lại một đống tro và một bộ xương - chúng không mang một nét quyến rũ
nào cả. Sự tỉnh ngộ đó (nibbidânupassana-nâna)
đối với sự liên hệ giữa ta và mọi vật thể do điều kiện mà có (choses conditionnées / conditioned things) là giai đoạn thứ năm của sự phát triển hiểu biết.
f)
Khi nào sự tỉnh ngộ đích thật đã đạt được thì khi đó niềm khát vọng thật sự muốn
loại bỏ được các vật thể cũng sẽ hiển hiện lên. Sự khát vọng đó hoàn toàn khác
với sự ước mong bình thường tìm thấy được sự giải thoát, bởi vì sự ước mong bình
thường không hề được thúc đẩy bởi sức mạnh của sự tập trung và sự quán thấy sâu
xa, do đó sẽ không phải là một niềm khát vọng thật sự. Sự tỉnh ngộ phát sinh từ
sự quán thấy sâu xa của phép luyện tập vipassanâ
bao trùm toàn bộ tâm thức vì thế niềm khát vọng được giải thoát cũng sẽ trở nên
thật rộng lớn như chính sự tỉnh ngộ, và cũng chính vì thế mà nó hoàn toàn mang
tính cách đích thật. Niềm khát vọng tránh được sự bất toại nguyện của các thể dạng
hiện hữu dưới hình thức hiện tượng ấy cũng bao la như niềm khát vọng của một
con nhái tìm cách để tháo thân trước cái miệng đang há to của một con rắn, hoặc
như là một con hoẵng hay một con chim bị mắc bẫy và đang tìm cách thoát ra. Niềm
khát vọng thật sự muốn thoát ra khỏi khổ đau đó (muncitukamyatâ-nâna) là giai đoạn thứ sáu.
g)
Trong giai đoạn này, niềm khát vọng tìm thấy sự giải thoát đã trở nên vững chắc
và do đó một sự nỗ lực cực mạnh cũng phát sinh theo, nhằm tìm kiếm một lối thoát.
Nhờ vào phép nội quán ta nhận thức được là sự bám víu và các thứ nọc độc tâm thần
là nguyên nhân làm cho tâm thức phải bị tù đày, và đồng thời đấy cũng là các mối
dây siết chặt nó vào cảnh huống ấy. Vì thế ta phải tìm ngay mọi cách để làm giảm
bớt đi sự ô nhiễm, và khi nào sự ô nhiễm bắt đầu giảm xuống thì ta cũng nhân đó
mà tìm cách để hoàn toàn loại bỏ nó.
Hãy
nêu lên một hình ảnh cụ thể để so sánh với sự giảm thiểu ô nhiễm trên đây. Thí
dụ có một người chài lưới kéo lên được một con rắn nước, thế nhưng lại cứ nhất
định cho đấy là một con cá. Nếu có ai bảo cho hắn biết đấy là một con rắn thì hắn
cũng không tin, ngoại trừ trường hợp mà hắn gặp được một vị thầy tốt, khéo léo
và từ bi tìm cách hướng dẫn và giáo huấn hắn, cho đến khi nào hắn tự mình nhìn
thấy được đấy là một con rắn, và chỉ khi ấy thì hắn mới bắt đầu biết sợ và tìm
cách giết con rắn. Hắn sẽ nắm lấy cổ con rắn đưa lên khỏi đầu và quay thật mạnh
cho đến lúc con rắn kiệt lực và chết. Hình ảnh trên đây giúp ý thức được là tấm
màn vô minh làm cho tâm thức bị ô nhiễm là nguyên nhân khiến cho con người bị
trói buộc trong một tình trạng thật đáng kinh sợ (người chài
lưới tưởng con rắn là con cá nên không biết sợ là gì, đối với chúng ta cũng thế
tấm màn vô minh che lấp tâm thức khiến cho chúng ta chẳng biết sợ sự hư hủy và
tan biến của mọi hiện tượng luôn bủa vây chung quanh và cả trong tâm thức của
chính mình).
Nếu
không biết tập luyện để làm giảm bớt dần trong từng ngày mọi tác động của những
thứ ô nhiễm làm cho tâm thức bị u mê thì sau này sẽ khó lòng để loại trừ hoàn
toàn được chúng. Sức tác động của chúng mạnh hơn rất nhiều so với sự hiểu biết
còn non kém mà ta mang ra sử dụng để đối đầu với chúng. Vì lý do đó nên sự hiểu
biết cần phải được khai triển thêm, và nhờ vậy khổ đau do những thứ ô nhiễm tâm
thần gây ra cũng theo đó mà sẽ giảm bớt đi một cách tương xứng. Phải luôn tự nhắc
nhở trong tâm trí là tất cả đều vô thường, không hàm chứa một giá trị nội tại
nào và cũng không có cái ngã nào cả (không thuộc của ai cả), không có gì đáng để có hay để được như thế, sự nhắc nhở
đó sẽ giúp ta không nên nuôi dưỡng những gì có thể làm cho tâm thức mình bị u mê,
và đồng thời sẽ làm giảm bớt đi trong từng ngày một các thứ ô nhiễm tâm thần.
Ta phải tự phát huy các khả năng của mình hầu giúp mình trở nên cứng cỏi hơn,
ngày càng tinh tế hơn và khéo léo hơn. Dù chỉ là một con người nhỏ bé thế nhưng
ta có thể vượt lên được những khó khăn to lớn như một quả núi. Ta chỉ là một
con chuột nhắt thế nhưng cũng có thể giết được con cọp. Ta luôn phải quyết tâm
và tìm kiếm các phương tiện phù hợp với khả năng của mình. Nếu như không có một
giải pháp nào có thể giúp ta xoay trở ngay tức khắc thì ta cũng phải tìm các phương
cách khác làm cho con cọp phải yếu sức đi trong từng ngày một, thay vì chỉ biết
lay hoay tìm cách để giết nó ngay lập tức. Sự tìm kiếm tích cực các phương tiện
vượt thoát (patisankhânupassana-nanâ)
là giai đoạn thứ bảy thuộc sự hiểu biết và quán thấy về sự thăng tiến trên Con
Đường.
h) Làm
suy giảm được các thứ ô nhiễm tâm thần sẽ giúp ta trở nên ngày càng tự chủ hơn
và ít bám víu hơn vào các vật thể. Giai đoạn phát triển tiếp theo của sự hiểu
biết đúng, tức kết quả mang lại từ sự buông xả không bám víu vào các sự vật, là
cách biết nhìn thấy tất cả mọi hiện tượng đều trống không, không hàm chứa một
thực chất nào cả, và không mang một vị thế nào cả (vô ngã) - dù đấy là súc vật, con người, v.v... - tất cả đều
không có một thực thể nào vì chúng đều vô thường, không có một giá trị gì cả vì
đều mang bản chất bất toại nguyện một cách sâu xa, không có gì quyến rũ cả vì
chỉ mang lại sự thất vọng. Tâm thức nhờ đó sẽ dần dần trở nên tự chủ hơn và không
để cho bất cứ thứ gì có thể thâm nhập vào được, dù chúng thuộc bất cứ một lãnh
vực hiện hữu nào. Các vật thể trước đây tỏ ra rất thích thú, đáng để cho ta thèm
muốn và bám víu bỗng dưng trở thành như một khối đá hay những hòn đất cục.
Hãy nêu
lên một hình ảnh để giải thích sự kiện vừa mô tả trên đây. Thí dụ một người đàn
ông lúc nào cũng yêu thượng vợ mình, thế nhưng người đàn bà lại không chung thủy,
và người đàn ông không còn thương vợ mình như trước nữa. Sau khi ly dị thì người
này được tự do muốn làm gì thì làm, và tâm thức của hắn sẽ không còn bị bấn loạn
nữa. Trong cấp bậc hiểu biết này (tức khi các thứ ô nhiễm tâm thần đã suy giảm), thì những gì trước đây tỏ ra vô cùng quyến rũ theo
cung cách của chúng bỗng dưng không còn mang một thực chất nào nữa, và nhờ đó
ta có thể loại bỏ chúng dễ dàng hơn và không còn để tâm đến chúng nữa, dù là
trong bất cứ trường hợp nào - tương tự như người đàn ông tìm thấy sự tự do sau
khi đã ly dị vợ (sự quyến luyến trước kia từng trói buộc
mình thì nay không còn nữa. Thí dụ trên đây cũng có thể đặt ngược lại: một người
dàn bà cũng có thể ly dị chồng để giải tỏa những sự trói buộc tâm thần). Sự buông xả đó đối với tất cả các hiện tượng (sankhârupekkhâ-nâna) là giai đoạn thứ tám.
i) Tâm
thức khi đã tìm được sự tự chủ và không còn bám víu vào mọi sự hiện hữu dưới hình
thức hiện tượng nữa thì sẽ giúp nó tiến xa thêm trên Con Đường và giúp nhận thức
được Bốn Sự Thực Cao Quý (saccanulomika-nâna).
Ở giai đoạn này, ta sẽ hoàn toàn hội đủ khả năng giúp loại bỏ tất cả mọi thứ ô
nhiễm tâm thần, và chặt đứt các sợi dây xích trói buộc ta trong thế giới (ngũ uẩn và các hiện tượng khác trong thế gian nay), hầu giúp ta trở thành một thánh nhân (aryan) dù là thuộc vào một cấp bậc cao
hay còn thấp. Đấy là giai đoạn thứ chín thuộc quá trình hiểu biết và quán thấy
về sự thăng tiến suốt trên Con Đường (xin chú ý là theo quan điểm của đại sư Buddhadasa
thì người tu tập sẽ đạt được ngay kết quả khi bắt đầu tu tập, dù đấy chỉ là một
cấp bậc thật thấp, dần dần từng bước một sẽ đạt được sau đó thể dạng A-la-hán.
Do đó A-la-hán không phải là một thể dạng được quy định dứt khoát, hoàn toàn và
đầy đủ và thuộc một bối cảnh bên ngoài mà người tu tập hướng vào đó như là một mục tiêu
phải đạt được. A-la-hán là một thể dạng của tâm thức được phát huy tuần tự tương
ứng với cấp bậc của người tu tập) .
Khi
nào vượt được tất cả các giai đoạn phát triển sự hiểu biết trên đây, kể từ sự
hiểu biết về sự khởi đầu và chấm dứt của mọi vật thể cho đến khả năng lĩnh hội
được Bốn Sự Thực Cao Quý thì khi đó người hành thiền cũng sẽ đạt được cấp bậc
thứ tư của phép luyện tập vipassanâ
hay là cấp bậc thứ sáu của sự Tinh khiết hóa (VI. 4). Sự hiểu biết tinh khiết và hoàn hảo phát sinh
từ cấp bậc này là một phương tiện giúp cho người tu tập nhận biết được con đường
đã đi qua, và sẽ mang lại cho người này một sự quán thấy sâu xa và hoàn hảo bằng
trực giác giúp người ấy tẩy xóa được tất cả mọi thứ ô nhiễm tâm thần (VII. 5).