Thiền Tịnh song tu
Thích Chân Quang
09/11/2013 07:08 (GMT+7)
» VI . TỨ LIỆU GIẢN

Nói đến pháp Thiền Tịnh song tu, làm sao cho các liên hữu nhận định một cách chuẩn mực, không nên để các tu sĩ nghi ngờ pháp Phật, xin giới thiệu pháp: "Tứ liệu giản".

6.1. Tứ Liệu Giản:

Năm 1969, vừa đi giảng luật vừa đi học khóa giáo lý Tịnh Độ Cơ Bản tại Quan Âm Tu Viện do Đức tôn sư giảng dạy. Trong môn tiểu sử 13 vị Đại sư Tịnh độ, vị Đại sư thứ 6 tông Tịnh độ là Vĩnh Minh Diên Thọ, ngài là vị Thiền sư đắc đạo, nhưng khi xiển dương giáo pháp thì dùng pháp Tịnh độ mà giảng yếu, được nhiều người trong giới Phật học tán đồng. Trong thời điểm ngài giáo hóa, có các vị tu sĩ thường hay đem Thiền bác Tịnh đem Tịnh chê Thiền khiến cho sự truyền thừa giáo pháp bị trở ngại, các tu sinh không kềm hảm được "tự ngã cống cao" nên cứ bàn bạc, rồi khen chê giáo pháp Phật, thành ra có lỗi vô cùng.

Với các lý do đó mà ngài Vĩnh Minh tự thắp đuốc làm đèn Thiền soi sáng cho muôn tối thế gian mà giảng dạy về tứ liệu giản, trong Thiền có Tịnh, trong Tịnh có Thiền, lối tu có nền nếp thật vững vàng. Nay tôi xin nêu lại về những ý tưởng mới của Đại sư, để các bạn sen của chúng ta thầm niệm nghiên cứu đúng đắn theo chiều hướng sâu rộng và thật cân đối của giáo pháp Phật để làm cầu nối cho Phật trường, gia tài Phật học môn phong có thêm pháp hạnh Thiền Tịnh song tu (HT Thích Giác Quang).

Đại cương Phật giáo chẳng ngoài năm tông. Năm tông là: Luật, Giáo, Thiền, Mật và Tịnh. Luật là căn bản Phật pháp, nghiêm giữ tịnh giới để mong Tam nghiệp thanh tịnh, nhất tánh viên minh. Ngũ uẩn đều không, các khổ đều độ. Giáo là y theo giáo tu quán, lìa ngón tay thấy mặt trăng, triệt ngộ Phật tánh vốn đầy đủ. Nhưng người này chỉ thấy Phật của tự tánh thiên chân mà gọi là thành Phật, chẳng phải liền thành ông Phật chứng đạo Bồ-đề. Mật thì lấy tam mật gia trì, chuyển thức thành trí, gọi là tức thân thành Phật. Đây cũng chỉ là lấy ngay thân này liễu sanh thoát tử làm thành Phật, mà chẳng phải thành ông Phật phước tuệ viên mãn. Ba tông này đều có thể thu nhiếp vào Thiền tông, vì khí phận giống nhau. Cho nên, chỗ cần yếu tu trì Phật pháp thật chỉ có hai môn: Thiền và Tịnh.

Thiền thì chuyên nhờ tự lực, nếu chẳng phải kẻ túc căn thành thục thì không được lợi ích thật sự.

Tịnh thì gồm nhờ cả Phật lực. Phàm người nào đầy đủ tín, nguyện, hạnh đều có thể mang nghiệp vãng sinh, chỗ khó dễ của hai tông xa cách nhau một trời, một vực.

Ngài Vĩnh Minh thiền sư ở vào đời đầu nhà Tống, là bậc đắc đạo hiểu thông giáo lý của Phật, thị hiện sanh ở thế gian, thông thấu nhất tâm, trọn tu vạn hạnh, mỗi ngày thực hiện một trăm lẽ tám việc Phật sự. Đến đêm, qua núi bên cạnh hành đạo tinh chuyên niệm Phật. Ngài sợ rằng hậu học chẳng hiểu rõ tông yếu nên làm bài kệ Tứ liệu giản, để người tu học Phật pháp biết chỗ nương về.

Bài kệ thứ nhất như sau:

Có Thiền, có Tịnh độ

Như hổ mọc thêm sừng

Đời nay làm thầy người,

Đời sau là Phật tổ.

Giảng trạch: “Có Thiền, có Tịnh Ð ộ, khác nào hổ thêm sừng, hiện tại làm Thầy người, đời sau làm Phật, làm Tổ”, nghĩa là: Người đã triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến tánh, lại còn thâm nhập kinh tạng, biết trọn vẹn các pháp môn quyền thật của Như Lai, nhưng trong các pháp, lại chỉ chọn lấy một pháp “tín nguyện niệm Phật” để làm đường lối chung cho chánh hạnh tự lợi, lợi tha. Phần nói về Thượng phẩm Thượng sanh trong Quán Vô Lượng Thọ kinh: “Đọc tụng Đại thừa, hiểu đệ nhất nghĩa” chính là nói về mẫu người này. “Khác nào hổ thêm sừng” là người này song tu Thiền Tịnh, có đại trí huệ, có đại Thiền Định, có đại biện tài, tà ma ngoại đạo nghe danh vỡ mật, giống như hổ mọc thêm sừng, oai mãnh khôn sánh. Có người nào đến học hỏi sẽ tùy cơ thuyết pháp. Gặp lúc nên dùng Thiền Tịnh song tu để tiếp độ thì dùng Thiền Tịnh song tu tiếp độ. Nên dùng chuyên tu Tịnh Ðộ để tiếp độ thì dùng chuyên tu Tịnh Ðộ tiếp độ. Bất luận là thượng căn, trung căn, hạ căn, không một ai không được lợi lạc. Người như thế há chẳng phải là nhân thiên chi đạo sư hay sao? Ðến lúc mạng chung, được Phật tiếp dẫn vãng sanh Thượng phẩm, trong khoảng khảy ngón tay, hoa nở thấy Phật, chứng vô sanh nhẫn, phẩm thấp nhất cũng là bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo. Cũng có người đốn siêu địa vị, đạt lên Đẳng Giác. Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo đã có thể hiện thân làm Phật trong trăm cõi; huống hồ là những địa vị sau đó càng lên cao thì càng thù thắng hơn, tiến thẳng đến địa vị thứ bốn mươi mốt là địa vị Đẳng Giác thì càng thù thắng đến mực nào nữa? Vì thế nói: “Lai sanh tác Phật, Tổ”, Đời sau làm Phật, Tổ là như thế.

Bài kệ thứ hai:

Không Thiền có Tịnh độ

Muôn tu muôn vãng sinh

Nếu được thấy Di-Đà

Lo gì không khai ngộ.

Giảng trạch : “Không Thiền, có Tịnh Ðộ, vạn người tu, vạn người vãng sanh, nếu được thấy Di Ðà, lo gì không khai ngộ”. Do người ấy tuy chưa minh tâm kiến tánh, nhưng cứ quyết chí cầu sanh Tây Phương. Trong kiếp xưa, Phật từng phát đại thệ nguyện nhiếp thọ chúng sanh như mẹ nhớ con (ý tưởng của Bồ Tát Đại Thế Chí, kinh Thủ Lăng Nghiêm). Nếu chúng sanh thật sự như con nhớ mẹ, chí thành niệm Phật thì cảm ứng đạo giao, liền được Phật nhiếp thọ. Người tận lực tu Định Huệ được vãng sanh đã đành mà kẻ phạm tội ngũ nghịch đánh mắn giết hại cha mẹ, phạm thập ác lúc lâm chung bị sự khổ bức bách, phát tâm hổ thẹn lớn lao, xưng niệm danh hiệu Phật hoặc đến mười tiếng hoặc chỉ một tiếng rồi liền mạng chung, cũng đều được hóa thân của Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh. Ðấy chẳng phải là “vạn người tu, vạn người vãng sanh” hay sao? Tuy người ấy niệm Phật chẳng bao lâu, nhưng do tín niệm danh hiệu Phật cực kỳ mãnh liệt nên đạt hiệu quả lớn lao, chớ nên đem người niệm Phật hờ hững, lững lờ để so sánh nhiều ít! Ðã sanh về Tây Phương, gặp Phật nghe pháp, tuy có nhanh chậm khác nhau, nhưng cả thảy đều được dự dòng Thánh, vĩnh viễn không thối chuyển. Tùy theo căn tánh sâu hay cạn sẽ hoặc dần dà hoặc nhanh chóng, chứng đắc các quả vị. Đã được chứng quả thì chuyện khai ngộ cần gì phải nói nữa, bởi thế mới bảo: “Nếu được thấy Di Ðà, lo gì không khai ngộ”.

Bài kệ thứ ba:

Có Thiền không Tịnh độ

Mười người chín chần chờ

Cảnh Trung ấm hiện ra

Liền theo nó mà đi.

Giảng trạch: “Có Thiền, không Tịnh Độ, mười người tu, chín người chần chừ. Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”. Do người ấy tuy liễu ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến tánh, nhưng Kiến hoặc, Tư hoặc, phiền não không dễ đoạn trừ, cần phải trải qua biết bao duyên niệm rèn luyện khiến phiền não đoạn trừ dứt sạch không còn sót; sau đó các phân đoạn sanh tử mới có thể xuất ly. Còn như kẻ chưa đoạn được mảy may nào ta không cần bàn đến. Nếu như đoạn phiền não mà còn sót chút mảy may chưa thể đoạn sạch thì luân hồi sáu nẻo vẫn y như cũ, khó bề trốn tránh. Biển tử sanh sâu thăm thẳm, đường Bồ Ðề xa vời vợi, nếu chưa về đến nhà đã liền mạng chung thì trong mười người đại ngộ, tám chín người đã giống như thế.

Vì thế, mới nói: “Thập nhân cửu tha lộ” (Mười người tu, chín người chần chừ).

Chữ “tha” ở đây nghĩa là “tha đà”, nếu nói thông thường là “chần chừ”.

“Ấm cảnh” là cảnh tượng của thân Trung Ấm, tức là các cảnh tượng do nghiệp lực thiện, ác trong đời này và bao kiếp trước cùng hiện ra khi lâm chung. Khi cảnh này hiện ra, chỉ trong nháy mắt, sẽ theo nghiệp lực thiện hay ác nào mạnh nhất rồi đi thọ sanh trong đường thiện hay ác, chẳng thể tự làm chủ được mảy may, giống như người mắc nợ, chủ nợ nào mạnh sẽ lôi đi trước. Tâm tính loạn động lắm mối, sẽ nghiêng lệch về chỗ nào tâm mình đặt nặng. Ngũ Tổ Giới Diễn tái sanh làm Tô Ðông Pha, Thảo Ðường Thanh lại sanh làm Lỗ Công. Đấy vẫn còn là bực thượng, nên nói: “Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”.

Ấm có nghĩa là “che đậy”, ý nói: Do nghiệp lực này ngăn che nên chân tánh chẳng thể hiển hiện. Chữ Miết nghĩa là “chớp mắt”. Có kẻ cho rằng chữ Tha nghĩa là lầm lạc, “ấm” là cảnh Ngũ Ấm Ma thì đều là vì chưa hiểu ý nghĩa chữ Thiền và chữ Có nên mới hiểu sai lầm như thế. Lẽ đâu bậc đại triệt đại ngộ trong mười vị, hết chín người lầm đường, lạc lối, lầm theo cảnh ngũ ấm ma mà đi, bị ma dựa phát cuồng ư? Phàm kẻ bị ma dựa phát cuồng thì là hạng tăng thượng mạn chẳng hiểu giáo lý, chẳng rõ tự tâm, tu mù luyện đui vậy. Sao chẳng biết tốt xấu, lại đem gán cho bậc đại triệt, đại ngộ vậy?

Điều này quan hệ rất lớn, chẳng thể không biện bác rõ.

Bài kệ thứ tư:

Không Thiền không Tịnh độ

Giường sắt và cột đồng

Muôn kiếp cùng ngàn đời

Không một ai nương tựa.

Giảng trạch: “Không Thiền, không Tịnh Độ, giường sắt cùng cột đồng, muôn kiếp với ngàn đời, không một ai nương dựa”. Có người bảo “không Thiền, không Tịnh Ðộ” chính là kẻ tạo nghiệp ác pháp, chẳng tu thiện pháp. Lầm lẫn lắm thay! Bởi pháp môn vô lượng, nhưng chỉ có Thiền và Tịnh là phù hợp căn cơ nhất. Kẻ đó đã chưa triệt ngộ, lại chẳng cầu vãng sanh, cứ hời hợt, hờ hững tu các pháp môn khác thì chẳng thể giữ cho Định, Huệ quân bình, đoạn Hoặc, chứng Chân, lại chẳng cậy vào Phật lực để đới nghiệp vãng sanh, dùng công đức tu trì cả đời để cảm lấy phước báo trời người trong đời sau. Đời này đã không có chánh trí, đời sau ắt bị phước chuyển, đắm say Ngũ Dục, rộng tạo ác nghiệp. Ðã tạo nghiệp ác sẽ khó tránh khỏi ác báo. Một hơi thở hít không vào nữa liền đọa địa ngục, rõ ràng là trải qua kiếp dài lâu, nằm lăn giường sắt, ôm ấp cột đồng để đền trả các món ác nghiệp tham thanh sắc, giết sanh mạng v.v… Chư Phật, Bồ Tát tuy rủ lòng từ mẫn, nhưng bị ác nghiệp chướng ngăn nên cũng chẳng được lợi ích gì.

Nội dung tứ cú kệ này là cương yếu một đời giáo hóa của đức Như Lai, là khuôn vàng cho người tu hành chứng liễu sinh thoát tử ngay trong hiện kiếp. Người tu trước phải biết rành rẽ thế nào là Thiền, thế nào là Tịnh độ; thế nào là Có Thiền, thế nào là có Tịnh độ. Thiền và Tịnh là theo Lý, theo Giáo mà nói; có Thiền, có Tịnh là theo Cơ, theo Tu mà bàn. Lý, Giáo hai pháp không khác, còn Cơ, Tu thì hai pháp khác nhau. Lời nói tuy giống nhau mà ý thì khác xa, cần phải chú ý mới chẳng phụ tấm lòng nhân từ của ngài Vĩnh Minh.

Thiền là chân như Phật tánh của chúng ta vốn đầy đủ. Tông môn chỗ bảo là: bổn lai diện mục trước khi cha mẹ chưa sinh ra. Lời của Tông môn chẳng nói thẳng ra, chỉ khiến người tham thiền tự mình được ngộ, nên mới nói như thế. Thật ra, không có năng sở, ly niệm linh tri không có chút suy nghĩ phân biệt mà vẫn thấu rõ cảnh giới trước mắt.

Tịnh độ là tín, nguyện, chấp trì danh hiệu, cầu sinh Tây Phương, chẳng phải nghiêng lệch duy tâm Tịnh độ, tự tánh Di-đà mà nói.

Có thiền tức là cực lực tham cứu, niệm tịch tình vong, thấy suốt bổn lai diện mục khi cha mẹ chưa sinh ra, minh tâm kiến tánh. Có Tịnh độ tức là thực hành việc phát tâm Bồ-đề, sanh niềm tin, phát nguyện, trì danh hiệu Phật A Di Đà, cầu sinh Tây Phương.

Nếu như tham thiền chưa ngộ, hoặc tuy ngộ mà chưa đại ngộ, đều chẳng được gọi là có Thiền. Nếu như niệm Phật chỉ thiên chấp duy tâm, mà không có tín nguyện, hoặc có tín nguyện mà chẳng tha thiết, đều chẳng được gọi là có Tịnh độ. Đến như tuy tu Tịnh độ mà tâm còn nghĩ tưởng trần lao, hoặc cầu phước báo nơi cõi Trời, cõi Người, hoặc cầu kiếp sau xuất gia làm vị Tăng, nghe ít giác ngộ nhiều, đắc đại Tổng trì, hoằng dương Phật pháp, giáo hóa chúng sinh, đều chẳng được gọi là người tu Tịnh độ. Vì họ chẳng chịu y theo Phật pháp các kinh Tịnh độ dạy, chỉ lấy sở học thông suốt giáo nghĩa làm tiêu chuẩn, thế thì kiếp sau có thể chẳng mê mà liễu thoát, muôn người khó có một. Hạng người bị phước làm mê, từ chỗ mê lại vào chỗ mê thật là rất nhiều. Quả nhiên có thể hiểu sâu nghĩa này, mới là người tu Tịnh độ.

Người chẳng biết nghĩa chân thật, cứ bảo hễ tọa thiền, tham thiền tức là có thiền; hễ niệm Phật tức là có Tịnh độ, tự làm lầm mình, lại làm lầm người khác, di hại vô cùng (Lời khai thị của Ấn Quang đại sư).

Thế nên, “Người tu hành nếu không có chánh tín cầu sanh Tây phương, tu lung tung các điều thiện khác thì gọi là oan gia đời thứ ba”, chính là ngụ ý này.

Bởi lẽ, đời này tu hành, đời sau hưởng phước; cậy phước làm ác ắt bị đọa lạc. Vui chỉ tạm hưởng trong đời sau, khổ vĩnh viễn suốt kiếp. Nếu như nghiệp địa ngục đã tiêu, lại chuyển sanh làm ngạ quỷ, súc sanh. Muốn lại được thân người, đó là điều khó nhất trong những điều khó!

Bởi thế, đức Thích Ca cầm mớ đất trong tay, hỏi ngài A Nan rằng: “Đất trên tay Ta nhiều hay đất trên đại địa nhiều?” A Nan bạch Phật: “Đất trên đại địa nhiều”. Phật dạy: “Được thân người như đất trên tay; mất thân người như đất trên đại địa”. Câu “vạn kiếp và ngàn đời, không một ai nương dựa” vẫn còn là do âm vận bài kệ bó buộc nên chỉ nói gần mà khuyến tu đó thôi (ngài Triệt Ngộ đại sư).

Trải qua năm mươi năm tu hành, giáo hóa Tăng Ni, Phật tử, hậu học nay chỉ mượn ít lời chư Đại Sư tu Thiền mà giáo Tịnh để làm bản vạn "Thiền Tịnh song tu" cho chư Tăng Ni môn phong nương nơi đó mà chỉnh trang hành lý về chốn cũ quê xưa: Hữu Thiền hữu Tịnh độ – Du như đới giác hổ – Hiện thế vi nhơn sư – Lai sanh tác Phật Tổ – Nam mô A Di Đà Phật.

6. 2 . Các pháp môn tu có Thiền có Tịnh:

* Thiền là vắng lặng,

Vắng lặng đến không cần nói năng bằng lời, như Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma thường giáo hóa pháp môn tu "ngoại giáo biệt truyền bất lập văn tự". Đặc tính không dùng ngôn ngữ của Thiền thật tuyệt diệu, vì: phổ hóa được muôn loài, thập loại chúng sanh, Phật hóa độ chư thiên và loài người, đúng như hạnh nguyện của chư Phật" chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" hiệu quả thành công cho đến thời Lục tổ Huệ Năng, là mẫu người dân tộc, ít chữ hoặc không thông chữ quan thoại của Tổ sư bên Trung Hoa, người thì có Bắc Nam, chớ lý tánh Phật thì không biên giới, không Bắc Nam. Đây chính là truyền thống đắc đạo của Nhà Phật, được có từ thời Đức Phật qua câu chuyện: niêm hoa vi tiếu.

Một ngày nọ, sau khi đi khất thực ở một kinh thành vùng đông bắc Ấn, trên đường tơ lụa, đến trưa giờ thọ thực đã xong, Đức Phật Thích Ca thuyết pháp, lúc bấy giờ có 02 vị thương buôn đến lắng nghe Đức Phật thuyết giảng.

Sau khi nghe xong các vị quỳ sụp lạy Đức Phật và xin quy y Tam Bảo, các vị có cúng dường 02 cành hoa sen, Đức Phật nhận và cầm đưa lên cao hỏi đại chúng? Ai cũng ngơ ngác nhìn nhau chẳng hiểu Đức Phật muốn nói cái gì, riêng chỉ có ngài Ma ha Ca Diếp mỉm cười, tỏ ý biết được Đức Phật ngầm ý chỉ, Đạo của Phật: "chánh pháp nhãn tạng"

"Niêm hoa vi tiếu", nghĩa tiếng Việt: cầm hoa mỉm cười đây là một giai thoại thiền, ghi lại sự kiện Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đưa cành hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp phá nhan mỉm cười.

Hôm nọ, trên núi Linh Thứu trước mặt đông đảo đại chúng, Đức Thế Tôn không tuyên thuyết pháp thoại như mọi ngày, mà lặng lẽ đưa lên một cành hoa. Đại chúng ngơ ngác chẳng ai hiểu gì, duy chỉ có đại trưởng lão Ma-ha Ca-diếp phá nhãn mỉm cười. Đức Phật liền tuyên bố với các thầy tì kheo: “Ta có chính pháp vô thượng trao cho Ma-ha Ca-diếp. Ca-diếp là chỗ nương tựa lớn cho các thầy tì kheo, cũng như Như Lai là chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh”. Từ câu nói này, chư vị Thiền sư tiền bối đã diễn đạt thành: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, bất lập văn tự, truyền ngoài giáo pháp, nay trao cho Ca-diếp”. Điều này có ý nghĩa gì?

Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội, tự thực hành thể nghiệm hay tự chứng cảnh giới và hằng sống với cảnh giới ấy bằng nhận thức trực tiếp về chân lý mà không thể chia sẻ cho người khác bằng lí luận. Trạng thái giác ngộ vượt ra ngoài nhận thức phân biệt của con người. Điều đó làm sao diễn tả bằng lời?

Sự thật thì trong giáo lí giác ngộ giải thoát của Đức Thế Tôn cũng có một sự hiểu biết có thể với tới được bằng cách tư duy, học hỏi giáo lý, diễn đạt bằng ngôn ngữ; nhưng cũng có một sự hiểu biết vượt trên lý luận, tư duy và không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ.

Thế nhưng, nếu không diễn đạt bằng ngôn ngữ, không nói gì cả, thì làm sao để hiểu được? Phải mượn hình ảnh để ví dụ, để diễn đạt những điều không thể diễn đạt bằng lời. ‘Niêm hoa’ là cách khai mở kho tàng tuệ giác vượt lên trên lý luận, tư duy, phân biệt bằng lời đó. Mọi tư duy phân biệt một khi đã bị cắt đứt thì tuệ giác vắng lặng uyên nguyên bình đẳng trong tâm thức của mỗi chúng sinh vốn vượt ngoài giới hạn của mọi hình thức tư duy khái niệm sẽ được khai mở.

Do đó, khi Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca-diếp mỉm cười (vi tiếu) là biểu thị cho pháp môn lấy tâm truyền tâm, một pháp môn siêu ngôn ngữ, siêu văn tự. Trong pháp môn này chỉ có sự giao cảm, sự rung động giữa hai tâm thức Thầy và Trò, và hai tâm thức này đã đồng nhất. Đó là cái tâm vi diệu Niết bàn.

Câu chuyện ngộ lý Thiền Phật pháp trên, cũng đã ảnh hưởng rất nhiều đến chư Tôn Túc Trưởng Lão, chư vị tổ sư trong chốn thiền lâm bên Trung Hoa. Câu chuyện của Đại sư xiển dương pháp môn niệm Phật Tịnh Độ tâm niệm và xiển dương pháp môn Thiền, chúng tôi xin trích lược ra đây để người sau nghiên cứu tu hành.

Hổ khê tam tiếu: Đại sư Huệ Viễn ở Lô Sơn hơn ba mươi năm, không bước ra khỏi núi, sư khước từ mọi sự liên lạc không cần thiết với đời, nguyện giải quyết vấn đề sanh tử ngay trong kiếp hiện tại. Khách đến viếng, lúc ra về, thường sư chỉ tiễn chân tới cầu suối Hổ Khê trước chùa rồi trở vào. Có một lần, hai danh nhân là nho sĩ Đào Uyên Minh và đạo gia Lục Tu Tĩnh tìm đến yết kiến. Vì cơ luận khế hợp, khi đưa khách ra về, bất giác Đại Sư bước ra khỏi cầu suối hồi nào không hay. Vừa lúc ấy, ánh tịch dương chợt rọi đến, in bóng người bên vách núi. Cả ba như bừng tỉnh, đứng lại nhìn nhau cả cười, rồi chia tay tạm biệt. Người sau dựng Tam tiếu Đình tại nơi đây để lưu niệm. Trong Tây phương bách vịnh, Nhất Nguyên đại sư có biên ký điều trên như sau:

Tây phương cổ giáo Thế Tôn tiên

Đông Độ khai tông hiệu Bạch Liên

Thập bát đại hiền vi thượng thủ

Hổ Khê tam tiếu chí kim truyền.

Tạm dịch:

Tây phương Phật dạy trước tiên

Truyền sang Đông Độ, Bạch Liên mở đàng

Mười tám hiền, học hạnh toàn

Hổ Khê dường hãy còn vang tiếng cười...

Câu chuyên trên cho thấy các bậc đại sự liên tông, cũng không tách rời ý niệm thiền trong thế giới niệm Phật cầu sanh Tịnh độ.

* Tịnh độ là tịnh hóa thế gian:

Tịnh độ là tịnh hóa thế gian, biến thế gian thành thế giới thanh tịnh (y báo), với chúng sanh thì tâm bình thế giới bình, tâm tịnh (chánh báo) Phật độ tịnh.

Nói về thế giới Tịnh độ, Đức Phật Thích Ca giới thiệu cõi Cực Lạc do đức Phật A Di Đà làm giáo chủ, là cảnh giới hoàn toàn không có chướng ngại cho sự giác ngộ. Thế giới này, là do công đức tu tập trong vô lượng A tăng kỳ kiếp của Bồ tát Pháp Tạng trước khi thành Phật hiệu A Di Đà. Bồ tát Pháp Tạng nguyện rằng khi ngài thành tựu chánh đẳng giác, thế giới do ngài làm giáo chủ sẽ gồm hết thảy những thứ tốt đẹp nhất của tất cả các cõi Phật khác. Các cõi Phật khác do thầy của Pháp Tạng, Phật Lokesvararaja , giảng cho ngài.

Tin, niềm tin trong Phật giáo tịnh độ được mô tả là đức tin trong sáng. Từ này được giải thích rộng là “tín”, nghĩa rằng người có đức tin thuần tịnh vào trí tuệ và thần lực của chư Phật, hay tin rằng những lời nguyện của chư Phật là dìu dắt chúng sanh sẽ được thành tựu. Trong kinh Bát chu tam muội, một kinh rất xưa của Phật giáo, đức Thích Ca giảng về sự thực hành tam muội, theo đó hành giả có thể trực tiếp diện kiến chư Phật trong mười phương. Cho nên, quy y Phật là đặt niềm tin tron vẹn nơi Phật, xem Phật là đấng cha lành, tán thán phẩm hạnh và tâm luôn nhớ niệm Phật ở mọi lúc bắt đầu từ ngày đến với Phật pháp. Mục đích của tu tập Phật giáo tịnh độ là để được tái sanh về cảnh giới cực lạc, hay tự thân chứng nghiệm cảnh giới cảnh giới tịnh độ khi tâm thanh tịnh. Lúc đó hành giả đồng nhất với từ bi và trí huệ vô biên của Phật A Di Đà. Phật giáo tịnh độ được lập trên 3 tiêu chí sau đây:

Nguyện, hay sự khát vọng, được tái sanh về tịnh độ

Hành, nghĩa là tập trung tâm chuyên nhất vào việc quán tưởng

Nam mô A Di Đà Phật có nghĩa là niệm Phật một cách chân chánh, chuyên nhất, và là sự thực hành chính yếu của Phật giáo tịnh độ ngay từ khi mới phát tâm. Mô Phật cũng nói đến niệm danh hiệu Phật lúc đang làm những công việc khác.

Ba tiêu chí gồm tín, nguyện và hành của Phật giáo tịnh độ được giản lược vào thế kỷ thứ 12 ở Nhật Bản. 18 lời nguyện của ngài Pháp Tạng được giải thích là, chỉ cần niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà thì sẽ được tái sanh. Thiền sư Shinran giải thích ngắn gọn rằng, niệm Phật cho đến khi niềm tin hiển lộ rõ mồn một nơi tâm, và niềm tin nơi Phật A Di Đà, thì đủ vãng sanh. Các tông phái tịnh độ Nhật Bản được biết đến dưới tên gọi những tông phái “duy tín, còn Phật giáo tịnh độ nói chung được lập trên 3 tiêu chí tín, nguyện và hành

Hạnh chuyên, Nguyện thiết

Bồ tát Pháp Tạng phát 48 lời nguyện khi ngài chưa thành Phật. Trong đó có 4 lời nguyện chính là nguyện thứ 18, 19, 20 và 22. Những nguyện này được chép trong kinh Vô Lượng Thọ, một trong 3 kinh chính của Phật giáo tịnh độ.

Nguyện thứ 18 là giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

Nguyện thứ 19 giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặt họ. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

Nguyện thứ 20 là giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi mà chẳng được toại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

Nguyện thứ 22 là giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở cõi nước khác sanh về nước tôi rốt ráo tất cả đến bực nhứt sanh bổ xứ. Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ chứa công đức độ tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ đứng nơi đạo chánh chơn vô thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiền tu công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

6.3. Tự lực và tha lực.

Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lực và tha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta. Tha lực nói đến những lời nguyện của đức Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng ta tái sanh vế thế giới cực lạc, cũng như chuyển hoá công đức của Phật A Di Đà cho chúng ta được thể hiển qua những lời nguyện của ngài.

Trong Phật giáo tịnh độ truyền thống, tự lực và tha lực cùng được tu tập song hành với nhau. Qua tu tập kết hợp niệm Phật, thiền, và quán tưởng, thì nguyện được tái sanh về thế giới cực lạc và niềm tin tái sanh sẽ luôn hiển hiện nơi tâm, hành giả sẽ đạt được tam muội của Phật, đồng nhất tự lực của vị ấy với tha lực của Phật A Di Đà, yếu tố làm nên từ bi và trí tuệ của vũ trụ.

Tuy nhiên, Phật giáo tịnh độ Nhật Bản chỉ có dựa vào tha lực mà thôi. Niệm danh hiệu Phật A Di Đà với tất cả niềm tin là đủ, và tất cả những sự thực hành tha lực khác được xem thật sự vô bổ. Hành giả hoàn toàn dựa vào những lời nguyện chính của Phật Amida; về cơ bản, danh hiệu Phật chỉ được biết đến qua những lời nguyện của Phật Amida. Điều này khiến cho Phật giáo tịnh độ Nhật Bản giống một hình thức dựa trên sự cứu rỗi (a salvation-based form), không như Phật giáo tịnh độ truyền thống phát xuất từ Trung Hoa.

Niệm danh hiệu Phật là một trong những sự thực hành trung tâm của Phật giáo tịnh độ. Niệm Phật bao hàm niệm “Namo Amitabha Buddha (Nam Mô A Di Đà Phật)”, nghĩa là thành kính đảnh lễ Phật vô lượng từ bi và trí tuệ, mà theo tiếng hoa là "Namo Omito-Fo" và tiếng nhật là "Namu Amida Butsu"

Niệm Phật từ lâu đã được nhìn nhận dễ tu tập, sẽ thu thập những ích lợi mà các tông phái chính của Phật giáo đưa ra.

Niệm Phật bao gồm cả việc thiền định, vì nhất tâm niệm Phật giúp hành giả tự đoạn tận si mê và tham ái.

Niệm Phật gồm cả việc nghiên cứu kinh điển, vì những từ thiêng liêng “Phật A Di Đà” chứa đựng những ý nghĩa cao siêu không thể kể xiết.

Niệm Phật gồm cả việc trì giới, vì niệm Phật đến cấp độ nhất định sẽ tịnh hoá và lắng động thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp.

Niệm Phật gồm cả tu tập mật tông, vì niệm những từ “A Di Đà Phật” cũng có hiệu nghiệm nhiệm mầu như khi tụng chú mantra vậy.

Quán cũng là sự tu tập trọng yếu trong Phật giáo tịnh độ. Hầu hết quán tưởng trong tịnh độ là quán Phật A Di Đà cùng với 2 vị Bồ tát Quan Âm và Thế Chí, và cả chính cõi cực lạc. Có tất cả 16 loại quán, được mô tả chi tiết trong kinh Quán Vô Lượng Thọ

Nhưng một sự thực hành khác nữa là tụng kinh Tịnh Độ. Tụng kinh giúp người hành trì luôn tưởng nhớ vững chắc Phật A Di Đà trong tâm và khiến cho nguyện tái sanh về thế giới tịnh độ ngày càng tăng trưởng.

Các thành phần của hầu hết nghi lễ tịnh độ đều dựa trên thuyết ngũ môn công đức của ngài Thế Thân

• Đảnh lễ và tán thán

• Quán tưởng đức Phật A Di Đà

• Tụng kinh A Di Đà

• Lập nguyện tái sanh về cực lạc

• Chuyển hoá công đức

Một sự thật không thế phủ nhận là việc thực hành pháp môn tịnh độ có thể thích ứng với bất kỳ ai và bất kỳ căn cơ nào đi nữa. Đó là lý do tại sao Phật giáo tịnh độ là lối tu tập tuyệt diệu cho những ai tầm cầu giải thoát trong thời đại ngày nay, thời đại có quá nhiều chướng ngại và xao nhãng cho việc tầm cầu giác ngộ.

6. 4. Thiền Tịnh tự tri:

Bồ tát Quán Thế Âm là một vị cổ Phật hành Bồ tát đạo của Đại thừa. Những người tin tưởng Ngài, dù không theo đạo Phật, thường chú tâm niệm câu “Nam mô đại từ đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát”, hoặc niệm câu “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát” khi gặp sự khổ đau phiền não. Đã có nhiều nghiên cứu khoa học nói về sự linh ứng này (dĩ nhiên là tuỳ thuộc vào tính chất tâm nghiệp)… John Spencer, một tiến sĩ y khoa danh tiếng, đã có những công trình nghiên cứu nghiêm túc về lợi ích lớn của sự tự cầu nguyện chân chính và sự cầu nguyện cho người khác, dù thực hành theo tôn giáo hay tín ngưỡng thánh thiện nào. (Các dạng cầu nguyện đúng đắn đều có tác dụng giảm bớt vọng niệm). Đây là một phương cách cải thiện bộ não và sức khỏe thân tâm, thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả, thuận hợp đạo lí của vũ trụ. Dù có theo tôn giáo hay không, dù thuộc tôn giáo nào, nếu thực hành là có lợi ích lớn.

1)Cách ngồi: Ngồi trên một cái ghế; mặt ghế khoảng tầm thấp hơn đầu gối hoặc ngang đầu gối. Ngồi thẳng lưng, nhưng không ưỡn ngực. Hai bàn tay úp trên hai đầu gối. Ngồi sao cho thoải mái bình thường là được.

2)Cách thở và lắng nghe: Giữ hơi thở ra vào đều, nhẹ và hơi dài. Khi thở vào, bụng hơi lớn ra một chút. Tuy nhiên, nếu thấy không thoải mái thì cứ thở tự nhiên theo thói quen. Điều quan trọng là phải tĩnh tâm lắng nghe (cảm nhận) hơi thở ra và vào. Nghe hơi thở một cách bình thường, không được tập trung khí lực vào cơ thể. Điều thiện ích lớn xuất sinh từ năng lượng của sự lắng nghe này. Thời gian thực hành nhiều ít tuỳ ý, nhưng không nên bỏ thực hành ngày nào cả. Sự tĩnh tâm (chú tâm) lắng nghe hơi thở là ánh sáng của trí tuệ-tâm linh.

Ông Nguyễn Khắc Viện là một bác sĩ Tây y và là một nhà văn hoá. Ông cho rằng công trình quan trọng của ông là bài vè này. Ông nói nó đáng được nhận bằng tiến sĩ. Nó chữa được nhiều bệnh tật. Một ông giáo sư áp dụng bài vè này đã chữa lành bệnh gai cột sống dạng nan y. Bài vè được viết sau khi ông Viện nghiên cứu các tài liệu tôn giáo và Đông y cổ để tự chữa bệnh phổi nan y của ông. Nội dung bài vè – theo tạp chí Tài Hoa Trẻ số 93 năm 1999: Thót bụng thở ra/ Phình bụng thở vào/ Hai vai bất động/ Chân tay thả lỏng/ Êm, chậm, sâu, đều/ Bình thường qua mũi/ Khi gấp qua mồm/ Ở đâu cũng được/ Lúc nào cũng được).

3)Thiền định tự tri: Sau thời gian tập thở và lắng nghe hơi thở (lâu mau tùy ý), thì chuyển qua lắng nghe những nói năng trong tâm trí. Đây gọi là thiền định tự tri (tức là quán tâm). Lắng nghe tâm trí mang năng lượng thiện ích cực lớn, cho mình và cho toàn vũ trụ, cho toàn thể chúng sinh, vì đó là hạnh nguyện đại thừa. Sự thông minh tối thượng sẽ tự biết cách lắng nghe tâm trí; đó là trí vô sư.

Tâm trí luôn nhớ nghĩ (tức là nói năng bên trong) lắm chuyện không thật sự cần thiết; gọi là vọng tưởng vô minh, không thấu triệt lí duyên sinh-vô ngã của thế giới hiện tượng. Lắng nghe vọng tưởng (tức là lắng nghe những nói năng trong tâm trí) một cách thâm sâu và tự nhiên thì tâm trí có sự đột chuyển, vọng tưởng im lặng (dừng lại): tâm sáng tỏ, tỉnh thức với tuệ giác tối thượng, an vui cực lạc. Đó là những giây phút vô niệm, vô ngã, mở con mắt sự sống; là những giây phút của nhân cách tự-do-tinh-thần, siêu vượt khái niệm và tướng trạng, bất sinh bất diệt, diệu dụng từ bi hỉ xả.

4)Ý nghĩa tôn giáo: Trạng thái tâm trí tĩnh lặng, sáng tỏ tỉnh thức, ngộ nhập với tính chất nhất thể của vũ trụ, đầy an vui cực lạc và thiện ích này có nhiều cách đề cập khác nhau. Ở đây xin nêu một liên hệ với Phật giáo.

Cách lắng nghe tâm trí này khế hợp với pháp môn thiền “Phản văn văn tự tánh”. Đây là pháp môn thiền phổ biến của Ngài Bồ tát Quán Thế Âm. “Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánh là thực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy… Tự tánh là Phật tánh (tánh giác), là tâm vô niệm (tức là tâm trí tĩnh lặng, sáng tỏ, tịch tri); là vô ngã, là chân ngã, là tâm linh vĩnh hằng. Nhận ra tự tánh là giác ngộ, là tự tri tự ngộ đích thực, Viên Giác hiện tiền; đó là giá trị tối thượng.

Bồ tát Quán Thế Âm là một vị cổ Phật hành Bồ tát đạo của Đại thừa. Những người tin tưởng Ngài, dù không theo đạo Phật, thường chú tâm niệm câu “Nam mô đại từ đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát”, hoặc niệm câu “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát” khi gặp sự khổ đau phiền não. Đã có nhiều nghiên cứu khoa học nói về sự linh ứng này (dĩ nhiên là tuỳ thuộc vào tính chất tâm nghiệp)… John Spencer, một tiến sĩ y khoa danh tiếng, đã có những công trình nghiên cứu nghiêm túc về lợi ích lớn của sự tự cầu nguyện chân chính và sự cầu nguyện cho người khác, dù thực hành theo tôn giáo hay tín ngưỡng thánh thiện nào. (Các dạng cầu nguyện đúng đắn đều có tác dụng giảm bớt vọng niệm).

Nên biết rằng, dưới cái nhìn của vật lí lượng tử thì ảnh hưởng của trạng thái tâm linh (tâm trí) đến sức khỏe, đến hoàn cảnh, đến tha nhân, đến xã hội và vũ trụ là một sự thật hiển nhiên... Tâm linh vừa mang tính chất cá thể (cá nhân), vừa mang tính chất tổng thể (vũ trụ). Fritjof Capra, một nhà vật lí danh tiếng, nói trong Đạo Của Vật Lí: “Nền vật lí này bây giờ đã thấy rằng vũ trụ là một mạng lưới chằng chịt vật chất và tâm linh liên quan mật thiết với nhau, mà mỗi phần tử chỉ được định nghĩa trong mối tương quan với toàn thể”. Vì vậy, theo nhiều nhà khoa học hiện đại thì phẩm chất đáng quý nhất của trí tuệ, của đạo đức, của giáo dục-đào tạo, của tương tác xã hội là năng lực cộng thông với “trí tuệ vũ trụ”, tức là dạng năng lực ở trạng thái vô niệm (im lặng tư tưởng-tỉnh giác). Đó cũng chính là hành động tối thượng, là phẩm chất tối thượng của tâm linh tôn giáo.

6. 5. Thiền Tịnh vấn đáp

Thoại đầu là dùng nghi tình để nhiếp niệm của Thiền Tông. Nghi nhỏ ngộ nhỏ, nghi nhiều ngộ nhiều, đốn nghi đốn ngộ, tiệm nghi tiệm ngộ, không nghi không ngộ. Có người tham câu : "Trước khi cha mẹ chưa sinh, bản lai diện mục của ta là gì ?"; có người tham câu "Niệm Phật là ai ?"; có người tham câu "Cây bách trước sân"; có người tham câu "Que cứt khô" (Càn thỉ quyết), "Ba cân mè", "Con chó không có Phật tánh"... Công án không phải một.

Hỏi : Tham thoại đầu có giống niệm Phật Di-đà không ? Hiệu dụng của thiền tịnh khác nhau chăng ?

Đáp : Thoại đầu là dùng nghi tình để nhiếp niệm của Thiền Tông. Nghi nhỏ ngộ nhỏ, nghi nhiều ngộ nhiều, đốn nghi đốn ngộ, tiệm nghi tiệm ngộ, không nghi không ngộ. Có người tham câu : "Trước khi cha mẹ chưa sinh, bản lai diện mục của ta là gì ?"; có người tham câu "Niệm Phật là ai ?"; có người tham câu "Cây bách trước sân"; có người tham câu "Que cứt khô" (Càn thỉ quyết), "Ba cân mè", "Con chó không có Phật tánh"... Công án không phải một. Hành nhân chỉ cần nắm chắc một câu thoại đầu, sớm tối tham tìm, từng khắc chiếu cố, gấp rút cũng vẫn như thế, ào ạt cũng vẫn như thế, như gà ấp trứng. Đến khi thời tiết nhân duyên chín mùi, bỗng nhiên òa vỡ một tiếng, khám phá thoại đầu bổn tham giống như thùng sơn lủng đáy, rỗng rang biết được tâm mình, thấy được tánh mình, thì trong ngoài tinh thô của mọi vật đều đến được mà toàn thể đại dụng của tâm ta đều thấu tỏ. Đây là pháp môn phương tiện của Thiền Tông chớ không thuộc về pháp môn niệm Phật của Tịnh độ tông. Tông thú không đồng, tác dụng tự có khác. Nhưng hành nhân Tịnh độ tông niệm niệm Di-đà, tịnh niệm nối nhau, đến khi công phu thuần thục, động tịnh nhất như, thì tâm năng niệm và Phật sở niệm trọn vẹn không thể được, thấy ngay tự tánh Di-đà, công dụng cũng không khác gì Tham thoại đầu. Đó gọi là "Giữ tâm một chỗ, không việc gì chẳng xong". Cho nên niệm Phật A-di-đà lại thêm nghi tình "Niệm Phật là ai ?", cũng có thể coi là dụng công thoại đầu. Dùng pháp Thiền Tịnh song tu này thì nói Phật A-di-đà là thoại đầu có gì lại không được.

Hỏi : Tâm Kinh và Chú, nếu niệm tụng thường thì diệu dụng như thế nào, trị ma ? hay cứu nạn ?

Đáp : Tất cả kinh chú, diệu dụng vô cùng. Như thường niệm không dứt lâu ngày thành khối, hễ niệm đến thì ma nạn đều tiêu ngay. Ma do tâm sinh, thường trì tụng, Phật tướng còn không thì làm gì có việc ma ? Cho nên có người hỏi Lục Tổ về việc ma, Tổ đáp : "Trong chánh pháp ta không có những việc như thế". Nạn là do nghiệp đời trước, tâm thường trì tụng thì năng sở đều không, thọ như không thọ. Vì thọ ấm không, nên nói : "Hay trừ tất cả khổ, chân thật không luống dối".

Hỏi : Cái gọi là phàm thánh, cái gọi là thành Phật và chưa thành Phật, phải đến bao giờ mới có chứng nghiệm phân biệt, do cá nhân trực giác hay là lúc viên tịch lưu lại nhục thân để biểu hiện ?

Đáp : Khắc niệm làm thánh, theo vật thành phàm, mê là chúng sinh, giác tức là Phật. Phật không thành hoại vì không hình tướng. Nếu cầu chứng nghiệm tùy phần tự biết. Lục Tổ nói : "Thường thấy lỗi chính mình, cùng đạo tức tương đương". Cho nên nói : "nghinh tân tiếp khách, gánh nước bửa củi, ăn cơm mặc áo, đi đại tiểu tiện, đều là đạo cả". Khổng Tử nói : "Nhân là người", cũng đồng với ý này. Nếu lấy lục thông (Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, Như ý thông, Lậu tận thông) để chứng nghiệm thì cách đạo càng xa.

Tôi có lần gặp gỡ các bậc Dị tăng, chỉ luận về tâm tánh, chẳng hy vọng ở sự kỳ lạ của các vị ấy. còn như phàm phu chơn giác, thất thức chưa chuyển, thì không thoát khỏi căn trần. Còn nói chơn giác vẫn là vọng sinh, nhục thân biểu hiện như được xá-lợi sau khi trà-tỳ hay nhục thân bất hoại..., đó chỉ là biểu hiện sự thành tựu của tâm hạnh kiên cố chớ nào có can hệ gì đến tánh phận. Cho nên hàng ngoại đạo cũng có người lưu lại nhục thân nữa là. Từ trước, hễ là Tổ sư quyết định phải kiến tánh, nên sự biểu hiện của đãi da hôi đâu đủ gây chú ý đến mọi người. Xưa có một vị Đại đức nói với vị Phạm tăng từ không trung giáng xuống rằng :

Thần thông tôi không bằng Xà-lê

Phật pháp lại cần đến lão tăng này.

Lại có một Đại đức khám nghiệm một vị tăng, vị tăng này không đáp lời nào, rồi liền viên tịch, khi trà-tỳ được mấy mươi hạt xá-lợi. Chúng nghi ngờ không giải thích được. Đại đức nói : "Dầu ông ta có 8 hộc 4 đấu đi nữa cũng không bằng lúc ấy hạ một chuyển ngữ". Lời nói này thật đáng suy gẫm.

Hỏi : Nhiếp tâm tịnh tu, đến lúc cảm thông, cảnh giới ấy như thế nào ? Điểm cảm thông ra sao ?

Đáp : Cảnh giới thiền định, một lời khó nói hết, đọc Kinh Lăng Nghiêm có thể biết đại khái, việc này mỗi người một khác vì căn khí không đồng. Thông thường là sau khi ngồi thiền được 100 ngày thì thấy huyết mạch lưu thông, vọng tưởng lần ít, lần sinh thiền duyệt, các bịnh không sinh, người chấp tướng hoặc thấy hình tướng Phật, Bồ-tát. Đến lúc đó chớ vội tự mừng, nên nhớ lại Kinh Kim Cang : "Phàm hễ có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức là thấy Như Lai" để soi rọi tâm mình, nhiếp niệm không dính mắc, các tướng cũng theo đó ẩn mất thì ma sự không khởi được. Ma cùng Phật chẳng lìa tâm này, đồng là cảnh huyễn, quyết chớ tham trước nhằm cho là Thánh chứng. Nếu cho Thánh cảnh liền lạc nẻo tà, phải nên cẩn thận !

Hỏi : Gọi là liễu triệt sinh tử, cảnh giới ấy như thế nào ? Dùng chơn giác giác tri nó hay là còn có một cảnh giới nào khác ?

Đáp : Khi chứng đến liễu triệt sinh tử, tự có cảnh giới của nó, như người uống nước lạnh nóng tự biết, thật khó nói dụ. Vì không thể dụ, như kiến trúc sư nói cảnh giới kiến trúc của mình, cần phải sinh viên chuyên khoa mới có thể dụ hiểu; bậc tiểu học hỏi đến khó mà đáp được. Cho nên các tác gia của tông môn gặp nhau, trợn mày chớp mắt đã dụ nhau không lời. Tại vì sao ? Vì xứ tâm hành diệt, đường nói năng bặt rồi.

Hỏi : Tiếng ngộ đạo đó phải hiểu như thế nào ? Cảnh giới lại ra sao ?

Đáp : Đạo vốn chỉ có một, ngộ có cạn sâu. Cổ đức có câu này : "Đại ngộ 18 lần, tiểu ngộ không kể hết số". Bây giờ người ta theo các lời câu trong kinh sách, hơi có chút hiểu, vội cho là ngộ đạo. Đó chỉ là việc của thức thần không thể can thiệp đến được. Nếu như không gặp được thiện tri thức mở lối cho sẽ trở thành "Tri giải chướng".

Kinh Tịnh Danh nói : "Pháp lìa kiến văn giác tri". Tri giải chướng sâu, càng thêm cuồng huệ, hý luận tranh luận, nhiễu loạn thức điền. Ngã mạn cống cao, tà kiến tăng trưởng, còn hại hơn là vô tri. Phải biết là ngộ thuộc Chứng phần, chớ không phải Kiến phần, Tướng phần. Đến như cảnh giới ấy thế nào đã đáp ở câu trên, không phiền phải lặp lại. (trích trong Cát Đằng Tập Dị)

6. 6 . Thiền và Tịnh độ trong mạch sống Việt Nam:

Đây là sự thật chứ không phải chuyện đùa, bởi lâu nay ai cũng nghĩ rằng hễ Thiền thì không có Tịnh, và Thiền tông lúc nào cũng không chấp nhận sự hiện diện của Phật A Di Đà trong tâm thức hành giả.

Vâng ! Đây là sự thật chứ không phải chuyện đùa, bởi lâu nay ai cũng nghĩ rằng hễ Thiền thì không có Tịnh, và Thiền tông lúc nào cũng không chấp nhận sự hiện diện của Phật A Di Đà trong tâm thức hành giả.

Ở đây chúng tôi không dám luận bàn về tôn chỉ của hai phái, chỉ cung cấp một vài cứ liệu minh chứng cho sự hiện diện đó trong thực tế lịch sử.

Cứ liệu thứ 1 : Tam pháp ấn của Thiền phái Trúc Lâm

Ai cũng biết Phật giáo Việt Nam rực rỡ ở thời kỳ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Một tư tưởng Thiền học đặc thù và tiêu biểu cho dòng Thiền Việt Nam gắn bó với dân gian, tinh thần dân tộc, ý thức bảo vệ đất nước, phóng khoáng trong tư tưởng qua hành trạng của Trúc Lâm Tam Tổ : Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang.

Điểm nổi bật của Thiền phái Trúc Lâm là "Phật pháp bất ly thế gian giác", tổng hợp được vạn pháp qui tâm nên dung hợp được cả ba pháp môn Thiền - Mật - Tịnh làm tôn chỉ trong đời sống Thiền gia.

Để dẫn chứng, chúng ta có thể thấy cách thờ cúng ở tất cả các chùa mang dấu tích của Thiền Trúc Lâm ở miền Bắc đều có thờ Tam thế Phật (Thích Ca - Di Đà - Di Lặc) biểu tượng của Tịnh Độ, có thờ Quan Âm thiên thủ thiên nhãn (hóa thân Chuẩn Đề) biểu tượng của Mật Tông, và khi gặp nhau trong mọi hoàn cảnh, câu Nam mô A Di Đà Phật là đầu cửa miệng lúc hào hỏi, là truyền thống xưa nay của nhân dân miền Bắc khi gặp nhau ở cửa chùa.

Cứ liệu thứ 2 : Thiền Sư Chuyết Công với tượng Di Đà, chùa Phật Tích, Bắc Ninh.

Thiền Sư Chuyết Công (1590 - 1644) người Phúc Kiến, là vị Tổ truyền dòng Thiền Lâm Tế từ Trung Quốc sang Việt Nam. Chùa Phật Tích là nơi Ngài Chuyết Công hoằng dương đạo pháp, truyền thừa Tông phái, cũng như nổi danh ở trụ xứ này. Và tại đây cũng nổi tiếng với tượng Phật Di Đà bằng đá, một nét nghệ thuật hoàn chỉnh còn lại sau bao điêu tàn của thời gian thế cuộc. Tượng Di Đà này đã được phục chế phiên bản để trưng bày nơi viện Bảo Tàng Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, như minh chứng cho một nền nghệ thuật điêu khắc đặc sắc của Việt Nam, một thời kỳ vàng son của Phật giáo thời Trịnh - Lê, và minh chứng cho sự phát triển của Tịnh độ vào thời bấy giờ, phát xuất từ một Thiền Sư dòng Lâm Tế. Thế thì đó là sự truyền bá Thiền Tịnh song hành có phải chăng ?

Cứ liệu thứ 3 : Thiền Sư Chân Nguyên (1647 - 1726) và chùa Cửu Phẩm, Hải Dương. Dân gian quen gọi là chùa Cửu Phẩm vì trong chùa có một đài cửu phẩm do Thiền sư Chân Nguyên tạo dựng còn nguyên vẹn duy nhất ở miền Bắc ngày nay.

Ai cũng biết, cửu phẩm liên hoa là biểu trưng quả vị của Tịnh độ ở cõi Cực Lạc thế giới, thế mà do một vị Thiền Sư danh đức đương thời tạo dựng, để tiếp nối phổ hệ truyền thừa từ Thiền phái Trúc Lâm. Thế là dù Lâm Tế hay Tào Động, sang đất Việt Nam đều qui ngưỡng Trúc Lâm mà nối pháp vậy. Đài cửu phẩm ở Thanh Hà, Hải Dương chính là kiểu mẫu được lấy từ đài cửu phẩm ở chùa Bút Tháp do Tổ Huyền Quang đã dựng trước kia.

Từ những cứ liệu trên, ta có thể thấy rằng Thiền chính thống của Việt Nam gồm Thiền - Tịnh song hành, là hai trong ba yếu tố của Thiền phái Trúc Lâm còn được duy trì cho đến ngày nay.

Với câu A Di Đà Phật, ngày nay còn các câu chào hỏi nhau ở miền Bắc khi đến cửa chùa. Cụ thể là nơi lễ hội chùa Hương hàng năm, ta có thể thấy lớp lớp dòng người lên xuống vào hội đều rơm rã câu A Di Đà Phật, Tăng hay tục, Việt Nam hay ngoại quốc, Thiền hay Mật - Tịnh, tôn giáo hay không tôn giáo... cũng đều với câu chào nhau như thế. Và nếu không như thế hoặc khác đi thì ta là người lạ lẫm và lạc lỏng trong biển người thuần nhất câu A Di Đà Phật, đã là một tục lệ gắn chặt vào đời sống linh hoạt của lễ hội xưa nay.

Thiền của Việt Nam, tôn chỉ và hành trạng là sự dung hợp chứ không hề mang tính cố chấp một chiều chỉ biết có Thiền mà bác tất cả, hoặc đem Thiền Tông Trung Quốc mà nhận làm Thiền của mình. A Di Đà Phật là tự tánh, là thoại đầu là một phần không thể tách rời của Thiền Việt Nam.

6. 7 . Pháp ngữ Tịnh độ

Người niệm Phật chỉ cần cử một câu Di-đà, lấy đó làm việc hướng thượng thẳng tới. Ngài Vĩnh Minh nói : “Cách học đạo không có gì kỳ đặc, ngoài việc chỉ cần tẩy sạch chủng tử nghiệp thức từ vô lượng kiếp đến nay của sáu căn”. Lời này quả rốt ráo ! Bởi con người sống trong vòng ngũ dục, thí như thích sắc thì có bóng dáng của sắc rơi ngay trong cửa ngõ sáu căn. Khi vào sâu trong ruộng tám thức, nó thường hiện khởi trong thấy, nghe, hiểu biết, sanh tình sanh ái, xả bỏ không được. Nó khởi vô số Hoặc, sanh vô lượng tham đắm, tạo vô lượng nghiệp, chịu vô vàn khổ, đều do bóng dáng này gây nên. Bóng dáng tức là chủng tử, cũng chính là tập khí. Phật biết tập khí khó trừ nên dạy chúng ta chấp trì một câu Di-đà, chuyên tâm mà niệm thì tập khí dần dần tiêu, ánh sáng của tâm dần dần hiển lộ, từ phần chứng dần dần đến toàn chứng. Niệm niệm liên tục, tất đến lúc tập khí tiêu hết, gốc rễ tự dứt thì tự nhiên cùng chư Phật sánh vai mà đi, đồng thở một lỗ mũi. Đó chẳng phải là một câu mà rõ ràng vượt hẳn trăm ức chăng ! Sắc là một trong ngũ dục đã như vậy, thì thanh, hương, vị, xúc có thể tự nghiệm biết.

Kinh Hoa Nghiêm chép : “Nếu người muốn biết cảnh giới Phật, phải tịnh ý mình như hư không, lìa xa vọng tưởng và các nẻo, khiến người hướng đến đều không ngại”. Cảnh giới Phật thì người người vốn có, mỗi mỗi hiện thành, chỉ vì trần tình che lấp nên nó trở thành biển nghiệp. Nay muốn chuyển biển nghiệp này thành cảnh giới Phật thì trước tiên phải làm thanh tịnh ý mình. Ý đã tịnh thì ngày ngày thường ở trong cảnh giới Phật. Rất nhiều người sở dĩ không làm thanh tịnh ý mình được, đều do bị vọng tưởng và các nẻo làm nhiễm ô. Muốn lìa xa nó thì phải thống thiết mà sách tấn lên, nhất tâm bất loạn chấp trì danh hiệu, chớ bàn thị phi, được mất, chỉ một lòng tin vào lời Phật, niệm tịnh liên tục, câu câu rõ ràng. Niệm đến lâu ngày tất nhiên chuyển hóa vọng tưởng thành chánh niệm, biến các nẻo thành giải thoát.

Pháp môn Tịnh độ xem thì dường như dễ, trì thì thật là khó. Bởi người học tập thì ít, người nghi ngờ thì nhiều, nên pháp môn vi diệu này ít có người đủ lòng tin thú hướng tu tập. Do đó trong Kinh Di Đà gọi đây là “pháp khó tin”. Phàm ý chỉ thâm sâu của Phật là muốn con người mượn Di-đà ở Tây phương để chứng Di-đà của chính mình, mượn Tịnh độ của Tây phương để chứng Tịnh độ của chính mình. Chứng đắc Tịnh độ, Di-đà của chính mình, thì Tây phương cũng là cõi Phật của chính mình. Không những Tây phương là cõi Phật của chính mình mà Đông phương, Uế độ của tất cả chúng sanh cũng là Tịnh độ của chính mình, Di-đà của chính mình, cho đến thế giới mười phương, không có mảy vi trần nào mà chẳng phải là cõi Phật tự tâm của ta. Tất cả diệu dụng ấy đều nằm trong một câu Di-đà. Khai cội nguồn, mở căn nguyên thì một Tịnh thì tất cả Tịnh, một chứng thì tất cả chứng. Pháp môn này ý chỉ sâu xa, không phải người học rộng, tu tập lâu ngày thì không thể thấu suốt được.

Tây phương được gọi là thế giới Cực Lạc. Lạc này là sự an lạc xứng tánh. Cơm áo hiện thành, lầu đài đủ cả, ao báu tùy ý, nhạc trời rộn vang, khí trời ôn hòa, con người không bị cái lạnh cắt da. Gió nhẹ thổi qua, phiền não tiêu sạch, hoa rơi lả tả, hương trời thơm ngát, lại có chim muông thuyết pháp nên người mê cũng ngộ. Có bậc Thượng thiện làm bạn, nên kẻ tà cũng thành chánh; ánh sáng có cả ngày đêm, nên u ám trừ sạch, thấy nghe thanh tịnh, trí tuệ tăng trưởng, hằng sa Tam-muội chẳng cầu mà tự chứng, vô lượng diệu dụng, đâu đợi tu lâu. Còn nữa, không có cái vui thoái đọa mà có niềm vui tinh tấn, bởi vậy chư Phật mười phương tán thán, quả thật là cảnh giới không thể nghĩ bàn của Đại thừa, khiến cho chúng sanh vượt ngang ba cõi, lên thẳng Bát địa, Quyền thừa Nhị thừa lẽ đâu sánh kịp ! Còn như người chuyên chí Tây phương, chỉ trong bảy ngày được Nhất tâm bất loạn thì vào ngay đất Bất thoái, khoanh tay an nhàn, như vầng trăng sáng rỡ giữa hư không, không mảy trần nào vấy bẩn được, như hoa sen mọc lên từ đất dơ. Cuối cùng khép mắt, đứng mà chết, ngồi mà tịch, thong dong nơi thế giới Cực Lạc, không khác Phật A-di-đà.

Sau khi tỏ ngộ còn phải siêng niệm Phật để sanh Tây phương chứng đắc hằng sa diệu dụng. Một khi đã sanh về cõi ấy thì không thứ gì ta không biết, không hiểu, thấu tận căn nguyên của các pháp, đó gọi là “chứng đắc trí tuệ đồng như Phật”. Hễ thân cận Di-đà thì tất cả phiền não trong đất phàm tâm, nào hiện hành, chủng tử đều dứt sạch, đó gọi là “làm sạch không phiền não đồng như Phật”. Hàng Ngũ địa Bồ-tát của Hoa Nghiêm vẫn còn học khắp tất cả pháp thế gian để tùy thuận giáo hóa chúng sanh, còn như người sanh Tây phương, thì tất cả Hoặc nghiệp chướng ngại việc giáo hóa, dù nhỏ nhiệm như mảy trần, hạt cát đều rốt ráo đoạn sạch, đó gọi là “phá sạch trần sa như Phật không khác”. Tất cả vô minh khó đoạn nhất, Thích-ca tu tập trong muôn kiếp ngàn đời mới đoạn sạch, còn như người sanh Tịnh độ liền đoạn ngay được vô minh, lên ngay quả Đẳng giác, đó gọi là “đoạn sạch vô minh như Phật không khác”. Hễ người sanh về Tây phương, đi trên đất như đi trên nước, đi trên nước như đi trên đất, vô số biến hóa, không thứ gì mà làm chẳng được, đó gọi là “đủ cả thần thông như Phật không khác”. Hễ nghe diệu pháp âm thì thấu triệt ngọn nguồn lý tánh, tự tại vô ngại, an vui xứng tánh, đó gọi là “thấy suốt thể tánh như Phật không khác”. Hễ nương thần lực của Phật thì đủ sức giải thoát, làm được việc khó làm, độ những kẻ khó độ, điều phục kẻ cang cường, hạnh nguyện Bồ-đề thảy đều tu tập, không thứ gì chẳng thể viên mãn, lại có hằng sa diệu dụng, vô lượng diệu trang nghiêm, đó gọi là “chứng các diệu hạnh như Phật không khác”. Đến được đất này thì gọi là sanh vào nhà Như Lai, thọ dụng đồng như Phật. Nếu sau khi rõ tâm thấy tánh mà liền khoanh tay, không đặt chí về Tây phương Tịnh độ thì người này trụ nơi Hóa thành của Thanh văn, rốt cuộc không được vào Bảo sở của chư Phật.

Phàm con người, chỉ một niệm bất giác thì mê việc lớn này, đánh mất chánh niệm Kim cang liền trở thành vọng niệm tạp nhiễm. Niệm này vừa khởi ở trong thì hiện ngay ra đầu cửa sáu căn, đều là việc tạp nhiễm. Bởi vậy, những gì chiêu cảm từ bên ngoài đều là Uế độ tạp nhiễm. Thế giới một phương đã Uế thì thế giới mười phương cũng thành Uế độ, vô lượng diệu nghĩa, trăm ngàn pháp môn đều biến thành gai góc. Những thứ mắt thấy, những điều tai nghe, tất cả đều thành cảnh của phiền não. Bởi vậy, chúng sanh bị nó trói buộc, chịu vô lượng khổ, không được giải thoát. Phật mở con đường thẳng tắt vi diệu, khiến người tin mà đi tới, có thể đoạn dứt khổ, chuyển được tâm. Nhưng cần phải buông bỏ mọi việc, chỉ cử một câu Di-đà, chẳng kể gì rảnh bận. Tu tập nhiều tháng nhiều năm, tự nhiên thuần nhất không tạp, đã thuần lại thuần hơn, liền được nhất niệm thuần chân. Đó là nhất niệm thuần tịnh. Một niệm thanh tịnh thì sáu căn thanh tịnh. Bên trong thân tâm đã thanh tịnh, thì bên ngoài chiêu cảm thế giới Tịnh độ cũng được thanh tịnh. Nói rộng ra thì thế giới mười phương cũng thanh tịnh, đương nhiên không rơi vào bốn câu, trăm lỗi. Đây là diệu dụng xuất cách. Nhân đã thanh tịnh thì quả đương nhiên sẽ thanh tịnh. Như cha thanh tịnh hay thực hành lòng từ, thì con thanh tịnh hay tận tâm hiếu kính; vua thanh tịnh hay dùng người sáng suốt thì bề tôi thanh tịnh hay bắt chước người tài. Tăng thanh tịnh hay thành tựu đạo nghiệp thì tục thanh tịnh hay học theo phạm hạnh ấy. Trong cảnh thuận mà thanh tịnh thì trong cảnh nghịch cũng thanh tịnh, nhẫn đến hạnh tham của Bà Tu Mật Nữ cũng thanh tịnh, tâm sân của Quốc vương Vô Yểm cũng thanh tịnh, tâm si độn của Thắng Nhiệt Bà-la-môn cũng thanh tịnh. Tất cả vô minh phiền não đều hóa thành thanh tịnh, phường dâm quán rượu cũng thanh tịnh. Đến cảnh giới này thì cung ma, hang hùm, thiên thượng, nhân gian đều vỗ tay đi qua, ca sầu vui múa, làm kẻ tự tại. Vậy thì, niệm Phật hay sanh Tây phương, phá sanh tử, ra khỏi ba cõi, vượt khỏi trói buộc, thoát khỏi hầm lửa, thấy rõ tự tâm, ra khỏi nanh vuốt, sức ấy lớn thay ! Có đường thẳng tắt như vậy mà không chịu đi, trái lại còn chê bai bài xích, quả thật là kẻ phàm phu điên đảo, chủng tử ngu mê, thật xót thương thay !

Một môn niệm Phật, nếu thâm nhập thì nhận được phép tắc Vô tận tạng của Như Lai. Tạng ấy, ai nấy đều sẵn có, nhưng bị trần duyên che lấp nên không tự thấy, cần phải niệm Phật để khơi nó lộ ra. Như kẻ nghèo túng biết có của báu ẩn tàng ngay trong nhà thì phải kiên tâm trì chí, lao động cật lực, cày xới đất lên. Một khi đất đã hết thì kho báu tự hiện. Từ đó, kẻ ấy được gọi là ông Trưởng giả giàu có. Nên biết một câu Di-đà, đi đứng chẳng lìa, khổ vui chẳng quên, tâm tâm liên tục, đọc nghe rõ ràng, tiến mãi chẳng dừng. Niệm đã tha thiết, trần chướng liền mở, lên nhà vào thất liền có thọ dụng, đó là kho báu vô tận. Trong đời mạt pháp, tuy người tham thiền hầu hết có tỏ ngộ, nhưng rất khó chứng, không thoát khỏi triền phược. Nếu như niệm Phật ngay thì dõng mãnh tiến tới, có thể thực hành thì ít nhưng công năng thì sâu. Các ngài như Tử Tâm Ngộ Tân, Thiên Như Duy Tắc, Viên Chiếu Tông Bản, Tịnh Thọ Từ Thâm, Chơn Hiết Thanh Liễu, Vĩnh Minh Diên Thọ là bậc rường cột của năm tông, đều thú hướng pháp môn này mà nhận được Như Lai tạng. Bởi vậy, thâm nhập pháp môn này thì cặn đục tự nhiên tiêu hết, vô minh tự nhiên hết sạch, sáu căn tự nhiên thanh tịnh, biển nghiệp tự nhiên cạn khô, sanh tử tự nhiên tịch diệt, Tam-muội tự nhiên hiện tiền, Lục thông tự nhiên đầy đủ, bờ Giác tự nhiên vượt lên, công đức tự nhiên thành tựu, rõ nhân thấu quả, lợi mình lợi người, cùng sanh Cực Lạc, vào ngôi Bất thối. Cổ đức nói : “Nhiếp phục 6 căn, Tịnh niệm liên tục, không quá 49 ngày liền chứng Tam-muội. Tam-muội đã thành, đều được giải thoát, ta mặc tình lấy nhưng không hết, dùng nhưng không cạn”. Ngài Vân Thê nói : “Ngang bằng chư Thánh trong một lời, vượt ngoài ba kỳ trong một niệm, thì chỉ có công đức niệm Phật mà thôi”. Như vậy, chặt thẳng thống khổ, chẳng qua chi ly, vượt ngay nhân hữu lậu, trọn chứng quả vô vi, pháp môn thù thắng này, ta nguyện cùng tất cả chúng sanh trong đại địa nhắm ngay đó mà vào.

Có người hỏi : Nghĩa của Tây phương Tịnh độ thế nào ?

Sư đáp : Tịnh độ tức là công phu tu tập đến chỗ rốt ráo nhất, mọi thứ cặn bã đều tiêu sạch, không còn mảy may cấu uế. Khi thật sự đến đất ấy rồi thì phàm thánh đều hết, chân ngụy đều quên thì đó là Tịnh độ chân thật, mới là nơi an thân lập mạng của ta. Còn như Tây phương, có đủ 7 nghĩa :

1. Đứng về năm màu mà luận, thì Tây phương là màu trắng, không có các thứ nhiễm ô, tượng trưng cho sự sáng sạch. Người tu Tịnh độ dùng một câu Di-đà gội rửa ba nghiệp thân khẩu ý, là làm thanh tịnh chánh nhân, nhân tịnh thì quả cũng tịnh. Bởi vậy người niệm Phật, lâm chung sanh Tây phương, chính là nhân quả tương hợp.

2. Đứng về bốn mùa mà luận, thì Đông phương là đất sinh trưởng tượng trưng cho mùa Xuân; Tây phương là nơi làm cho chín, tượng trưng cho mùa Thu. Giống như phàm phu phát tâm ở phương Đông, nhờ niệm Phật mà vãng sanh, tức là thành thục đạo quả ở phương Tây.

3. Theo Ngũ hành mà luận, thì Đông phương thuộc Mộc, Tây phương thuộc Kim. Mộc gặp búa rìu đẽo gọt chuyển cây tạp thành rường cột. Phàm phu giống như cây chưa đẽo gọt, chịu nhất tâm hệ niệm danh hiệu Phật ở Tây phương, rõ ràng được búa rìu đẽo chạm, tự chuyển phàm thành thánh, đạo đức hoàn bị.

4. Theo Bát quái mà luận, thì Đông phương thuộc quẻ Chấn, biểu trưng cho động, động thì sanh các thứ khổ não, nên thế giới Ta bà được gọi là Khổ hải. Tây phương thuộc quẻ Đoài, tượng trưng cho an vui, nên Tây phương có tên là thế giới An Dưỡng hay cõi Cực Lạc.

5. Theo mặt trời mặt trăng mà luận thì, mặt trời là Dương, tượng trưng cho Trời, mặt trăng là Âm, tượng trưng cho Đất. Hai hành tinh này mọc ở phương Đông và lặn ở phương Tây, con người nên bắt chước, siêng tu Tịnh nghiệp cầu về Tây phương, đó gọi là đạo Tam tài nhất quán (thiên, địa, nhơn).

6. Con người ở Đông phương giống như cây, mùa Xuân thì đâm chồi nảy lộc, mùa Thu thì lá rụng cành khô. Tươi, khô, thịnh, suy này giống như chúng sanh khi ở trong biển khổ Ta bà bị phiền lụy bởi những thứ như sống chết, thành bại, được mất… Còn Tây phương giống như vàng ròng, vàng thì trải qua muôn kiếp vẫn chẳng hư hoại, ở trong dơ bẩn nhưng không biến chất, vào nước lửa chẳng đổi thay, nên người sanh Tây phương được gọi là Cực Lạc, vượt sanh tử, thoát ba cõi.

7. Đông phương là nước hữu vi, nào ăn, mặc, cung điện, nhà cửa, vật dụng, tất cả phải do sức người làm ra mới có, Đông phương là cõi Dục lạc. Phàm những ai ở quốc độ này đều tham cái vui ngũ dục, mê mất mặt mũi thanh tịnh xưa nay. Còn Tây phương là nước vô vi, nghĩ đến áo thì áo hiện, nghĩ đến ăn thì ăn đến, muôn ngàn thọ dụng tự nhiên, chẳng phải nhọc công làm, Tây phương là cõi Tánh lạc. Người sanh Tịnh độ hưởng sự an vui xứng tánh soi thấy năm uẩn đều không.

Hỏi : Buông bỏ hết tình thức, xưa nói “liền có thể ngộ được ông chủ trong mộng” sao còn dùng công phu thẳng tắt, lại dạy người phải khổ công niệm Phật, nhắm trong cái chi ly mà cầu ?

Đáp : Buông bỏ hết tình thức rất là dễ dàng, chỉ là người đời không thể buông bỏ, mà cũng chưa từng buông bỏ. Nếu khởi tâm muốn buông thì liền nảy sinh lắm việc, vừa khởi tâm muốn bỏ, lại càng thêm phiền toái. Bởi phàm phu tìm kế sống ngay nơi tâm ý thức, muốn dùng tâm ý thức để buông bỏ muôn duyên, chẳng khác nào đem lửa đom đóm thiêu cháy núi Tu Di, rốt cuộc không thể thiêu được. Chỉ có người đại triệt đại ngộ mới hay khéo dùng, còn lại đều không thể. Cho nên nếu không thâm nhập pháp môn niệm Phật, thì mặc kệ người khác buông hay không buông, bỏ hay không bỏ, mình chỉ lớn tiếng niệm đi niệm lại, đầu sào trăm thước hố thẳm buông tay, tình duyên chẳng đoạn nhưng mất, khí chất chẳng đổi nhưng thay, liền có thể buông thân nằm ngang, đến đi tự tại, hiện tại chính là cố hương yên bình của mình.

Hỏi : Trong thời Oai Âm Vương, trước lúc cha mẹ sanh ra ấy, có gọi là Tịnh độ không ? Có gọi là Tự tánh Di-đà không ?

Đáp : Thời Oai Âm Vương, trước lúc cha mẹ sanh ra, cố nhiên là chân Tịnh độ, chân Tự tánh Di-đà, chỉ do vì gọi tên không được. Nhưng nếu gọi được thì thành Uế độ mà không còn là Tịnh độ, liền thành phàm phu mà không phải là Di-đà. Chúng sanh trong thế giới Ta bà chỉ vì danh tự này mà bỏ không được, quên không xong, cho nên chuyển Phật Di-đà trong pháp giới thanh tịnh xưa nay vốn có thành phàm phu trong đời ác ngũ trược. Nếu trong lòng không có thứ tạp nhạp ấy thì tự nhiên cùng tắc biến, biến tắc thông, chỗ thông ấy thấy Tự tánh Di-đà, liền chứng Duy tâm Tịnh độ.

Hỏi : Thiền sư khi đại ngộ rồi, có thể thong dong trong Thường Tịch Quang, đâu cần cầu sanh Tây phương, sau đó mới gọi là có ích ?

Đáp : Thiền sư quả thật có sức mạnh lớn, đến khi buông bỏ thân mạng thì liền được chút phần thọ dụng trong Thường Tịch Quang. Nhưng tập khí vẫn còn dày, nên tiến tới rất khó khăn. Trí tuệ cỡ như Lô Xá Na Phật mà còn phải tu tâm trăm kiếp, nếu người trí chưa bằng như Phật ấy thì chưa có ai chẳng bị nghịch cảnh đánh mất. Bởi vậy cầu sanh về báo độ của Phật Di-đà, gần gũi báo thân Di-đà, trước giữ chắc mình không thoái chuyển, lại càng phải tinh tấn mới vào được giai vị Phật.

Hỏi : Cõi này cũng có ao, hoa, suối, cây v.v… đáng vui, cõi kia ao, hoa, suối, cây v.v… cũng đâu hơn cõi này, tại sao lại nói Tây phương là do xứng tánh mà hiện ?

Đáp : Phàm phu có hai tình chấp khó thay đổi, nên rơi hết trong sanh tử luân hồi. Cảnh giới mà cõi này có đều do đối đãi mà hiện. Có thành có hoại, nên gọi là cảnh sanh diệt. Nếu sanh cõi kia rồi, lìa đối đãi của ba cõi, vượt sanh tử thoát luân hồi, cho nên trong thế nào thì hiện ra ngoài thế ấy. Nếu chúng ta đến được đất ấy, tức chân ngụy đều quên, ao, suối, hoa, cây muôn thứ hiện ở bên ngoài đó không rơi vào chân ngụy trùng trùng, có thể thấy chân cảnh của xứng tánh, an vui xứng tánh, không hề có các việc tươi, khô, thịnh, suy, tuyệt nhiên không phải do đối đãi mà thành, không mảy may rơi vào pháp sanh diệt. Đương nhiên, ta không thể đem tâm phàm phu suy lường rồi nghĩ bàn mà cầu được, lẽ đâu cõi này sánh kịp !

Hỏi : Nghe rằng, người niệm Phật cũng vào được pháp giới Tịnh độ, vậy cái gì gọi là pháp giới Tịnh độ ? Và phải tu như thế nào để vào được ? Nếu xưa nay thanh tịnh thì dùng niệm Phật làm gì ? Nếu xưa nay dơ uế thì tại sao niệm Phật liền được thanh tịnh ?

Đáp : Pháp giới xưa nay thanh tịnh, do trong tâm chúng sanh có vô lượng tạp nhạp, pháp tùy tâm biến nên thành Uế giới. Nay nếu cử một câu danh hiệu Phật, buông bỏ muôn duyên, vững chắc như người đàn bà câm cầm chổi quét dọn suốt 12 thời, đâu đâu cũng sạch sẽ. Niệm đến tâm không, tâm không thì tạp nhiễm cũng không, tạp nhiễm đã không thì trở lại là pháp giới thanh tịnh xưa nay. Đó thật là lắng đục thành trong, chuyển uế thành tịnh. Đến được đất này thì sanh tử cũng là Tịnh độ, Thiên đường địa ngục cũng là Tịnh độ, núi cao đất sâu cũng là Tịnh độ, vinh nhục thăng trầm cũng là Tịnh độ, thị phi được mất cũng là Tịnh độ, cả thế giới mười phương cũng là Tịnh độ, nên gọi đó là pháp giới thanh tịnh, do công dụng niệm Phật mà vào được, há không thẳng tắt ư !

Hỏi : Người vào pháp giới Tịnh độ, thức thứ tám của họ rỗng rang chưa ? Nếu chưa rỗng rang thì sao gọi là pháp giới Tịnh độ ?

Đáp : Đây chỉ là chút phần tịnh, đâu thể làm rỗng rang thức thứ tám. Nếu muốn toàn tịnh thì thẳng đến thành Phật, thức thứ tám mới rỗng rang, nên nói : “Sau đạo Kim cang dị thục không”.

Hỏi : Pháp giới Tịnh độ thuộc độ nào trong bốn độ ?

Đáp : Nếu đoạn Hoặc chưa hết thì đó là Phương Tiện Hữu Dư độ, hay Thiểu phần Thường Tịch Quang độ. Nếu vào đó thì phải càng tinh tấn tu tập, thẳng đến thành Phật thì mới gọi là Toàn cư Thường Tịch Quang độ.

Hỏi : Đã có pháp giới Tịnh độ để sanh thì đâu cần dạy người cầu sanh Tây phương Tịnh độ ?

Đáp : Thế giới mười phương tuy là một pháp giới Tịnh độ, nhưng căn cơ chúng sanh có lợi có độn, đâu thể chứng nhập được. Bởi vậy, Phật mở cửa phương tiện, dạy người phải từ Tây phương mà thể nhập. Tây phương là báo độ của Di-đà. Thân cao 60 vạn ức na-do-tha hằng hà sa số do-tuần là báo thân của Di-đà. Báo thân tất ở nơi báo độ. Người học đạo hễ nghĩ đến Phật quả Bồ-đề tất phải thân gần báo thân Phật, nghe diệu pháp của Phật mới chứng đắc rốt ráo pháp giới Tịnh độ. Bởi vậy, đã vào được một phương thì thế giới mười phương cũng vào được. Một phương thanh tịnh thì mười phương thế giới đều thanh tịnh; một phương thành thế giới Cực Lạc, thì mười phương thế giới cũng thành Cực Lạc.

Hỏi : Nghe thầy dạy, niệm Phật không cho niệm thầm, nếu người ốm yếu, thật không thể ngày đêm niệm lớn tiếng. Người xưa thì dạy, âm thanh ở ngay cửa miệng, lặng lẽ mà niệm, cách này thế nào ?

Đáp : Người niệm thầm, sức yếu khí hôn, dễ sanh giải đãi, hơn nữa không thể tác động đến người khác. Những âm thanh tạp nhạp, vọng tưởng nhân cơ hội ấy tác động vào tâm thì đâu thể thành tựu Tịnh nghiệp ? Nếu thật người đó ốm yếu không thể niệm lớn tiếng thì cho phép dùng cách ấy, nhưng phải tâm tâm phản chiếu, quyết chí Tây phương, mỗi ngày phải tinh tấn lên mới được.

Hỏi : Người niệm Phật lớn tiếng không cần ghi số lượng được không ?

Đáp : Người mới thực hành, ngày ngày phải ghi, lấy thời khóa làm lộ trình thì không rơi vào giải đãi, biếng nhác. Nếu không có số lượng nhất định, thì lúc niệm lúc không, vui chán xen tạp, rảnh bận không chừng, dễ sanh phóng túng, tịnh nghiệp khó thành. Duy người tu lâu thì ghi hay không ghi cũng được. Nhưng lúc chấp trì một câu Di-đà phải như cầm kiếm Thái A, muôn người địch không lại, phá thủng vòng vây, chém sạch quân giặc, thì tự nhiên đến được thế giới thanh tịnh.

Hỏi : Người tu tập, quý ở chỗ một thấu tỏ thì tất cả thấu tỏ, trong lòng không gá nương, không duyên niệm, nay luôn luôn niệm Phật là có duyên niệm, có gá nương, đâu thể gọi là một thấu tỏ thì tất cả thấu tỏ ?

Đáp : Đây chẳng qua lấy nêm tháo nêm, lấy độc trị độc mà thôi. Người đời nếu niệm thanh sắc, tài lợi thì sẽ bị những thứ này trói buộc, rồi nuôi dưỡng nó trong lòng. Niệm thứ gì cũng đều như vậy cả. Phật thương chúng sanh không thể buông bỏ tâm niệm, nên lấy một câu Di-đà này thay thế tình niệm của người đời. Đây gọi là lấy niệm xuất thế thay đổi niệm thế gian, lấy niệm công đức thay cho niệm tội lỗi, lấy niệm giải thoát thay cho niệm trói buộc, lấy niệm an lạc thay cho niệm hiểm nguy. Như người thợ khéo tay lấy rường thay cột, tẩy rửa làm cho chúng sanh sạch hết tạp niệm, nhân một niệm của sự niệm Phật này mà trở về cố hương vô sở hữu. Người xưa nói : “Qua sông phải nhờ bè, đến bờ chẳng dùng ghe”, thì làm gì có gá nương hay duyên niệm đâu !

Hỏi : Người ta nói, tham thiền là lộ trình thẳng tắt, niệm Phật là con đường quanh co, đúng không ?

Đáp : Tham thiền cốt phải chăm chăm buông bỏ, niệm Phật cốt phải câu câu toàn đề. Đề và buông tuy khác, nhưng công dụng như nhau. Nếu người giỏi hạ thủ công phu thì nơi quanh co cũng thành thẳng tắt, không biết dụng công thì nơi thẳng tắt trở thành quanh co. Hơn kém là ở con người, không nên nghi ngờ pháp môn sâu cạn. Cổ đức nói : “Chỉ đề mà không cần tham gì khác, cầu thì sẽ thấy”. Con đường niệm Phật, rất dễ thực hành, vô cùng thẳng tắt, xin suy xét kỹ.

Hỏi : Trước đây có một người nói mình đã tỏ ngộ, chê niệm Phật là kế sanh nhai của kẻ độn căn, nói vậy là thế nào ?

Đáp : Miệng nói tỏ ngộ, nhưng mới chuyển một bước liền có không biết bao thứ chấp trước dắt dẫn, vô minh hiện ngay trước mắt, phải gọi gã là kẻ chẳng biết gì mới đúng. Hơn nữa, do không biết lực dụng của một câu Di-đà nên mới cho đó là kế sanh nhai của kẻ độn căn. Nếu hiểu được như vậy, thì liền chứng câu thoại đầu “Bất thoái chuyển”, gót chân chỉ mới đứng vững mà thôi. Tồi tệ thật ! Người đời nay chẳng thể sánh với người xưa. Việc ấy đâu có gì lạ !

Hỏi : Người tu Tịnh độ có nên ghi nhớ, ấp ủ trong lòng tất cả những cảnh mình đã thực hành thuần thục rồi không ?

Đáp : Người niệm Phật nhưng không thành tựu Tam-muội, lỗi chính ở chỗ này. Cảnh chưa thuần thục thì muốn tập thuần thục, nhưng chẳng chịu buông bỏ. Cảnh thuần thục rồi thì thường sợ bị quên mất, nên nhớ nghĩ hoài, đó là cái tệ đáng trách. Nhẫn đến, nhận ân chịu oán của người khác quyết lòng phải trả hết mới thôi, dù chết cũng cam tâm. Nếu thay đổi cái nhớ nghĩ đó bằng một câu danh hiệu Phật, buông bỏ hết mọi thứ đã học đã thực hành đi, phó thác nó cho nước chảy mây trôi, lâu ngày chầy tháng tự nhiên thành một khối Tịnh độ vững chắc.

Hỏi : Niệm Phật cầu sanh Tây phương có thể đọc sách Phật và sách Nho không ?

Đáp : Tất cả Phật pháp và các nghĩa lý đều trợ giúp ta tiến tu, nhưng nếu không hiểu rõ diệu nghĩa của pháp môn Tịnh độ và tin không tha thiết thì phải xem gấp những kinh sách nói về Tịnh độ để quyết định sự tu tập và thú hướng. Còn những sách vở khác không nên dung nạp bừa bãi trong tâm, chúng sẽ trở thành nhân duyên chướng đạo. Bởi vậy Nhất tâm bất loạn là tông chỉ của việc tu Tịnh độ, là cửa lớn để thành tựu Tam-muội.

Hỏi : Như Lai dạy người cầu sanh Tây phương, lại dạy người hồi nhập Ta bà, hai ý này trái nhau, nguyên nhân là thế nào ?

Đáp : Ông không thấy đoạn văn trước có câu “Không trái An Dưỡng” đó ư ? Bởi người mới phát tâm Bồ-đề, sanh trong nước Cực Lạc ở Tây phương, có nhiều thời giờ hàm dưỡng huân tu, Hoặc chướng hết sạch, cửa Tuệ mở toang, thần thông đốn phát lên ngôi Bất thoái, sau đó lại ra giáo hóa chúng sanh, đến đi vô ngại. Do đó những người ở lâu nơi Cực Lạc rồi, Phật lại sai họ hồi nhập Ta bà để độ chúng sanh, nhưng vẫn không trái với An Dưỡng. Trụ thần ở đây, phân thân hồi nhập, tùy loại hóa hiện. Nên biết, khuyên người bỏ Ta bà để sanh Tịnh độ, hay khuyên người bỏ Tịnh độ để sanh Ta bà đều phải quán cơ khế giáo, tùy căn cơ mà hóa độ, lợi mình lợi người. Đạo Bồ-tát viên mãn thì Phật đạo nào khó gì ! Đây là phương pháp độ sanh vô cùng nhiệm mầu của Phật A-di-đà và Phật Thích-ca.

Hỏi : Pháp môn này, vượt thẳng ba cõi, điều ấy tin rồi. Còn chúng sanh trong thời mạt pháp sợ rằng họ tự sanh chướng ngại, chưa rõ có mối tệ nào không ?

Đáp : Người tu Tịnh độ có 10 cái tệ làm chướng ngại pháp môn. Đó là :

1. Tin không hết lòng.

2. Làm không hết sức.

3. Phát nguyện không sâu.

4. Lẳng lặng niệm thầm.

5. Tâm duyên việc đời.

6. Chẳng trừ thương ghét.

7. Ôm nhiều nội điển ngoại điển.

8. Thích ngâm nga phân tâm.

9. Tán gẫu nói chuyện phiếm.

10. Không được nhất tâm bất loạn.



Người ra công khắc kỳ thủ chứng, tha thiết hạ thủ công phu quyết không để phạm phải 10 mối tệ vừa nêu, chống mắt dựng mày, truy đảnh niệm Phật, tự nhiên hiện tại thấy bản tánh Di-đà, mãn báo thân này về ngay Tây phương Cực Lạc (trích Giác Hổ Tập, Thiền sư Băng Hoài, bản dịch Thích Đồng Ngộ – Tục tạng 62)

Các tin đã đăng:
© 2005-2011 Chùa Vĩnh Nghiêm.
Biên tập: Đ.Đ. Thích Thanh Phong.
Địa chỉ: 339 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P.7, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: (08)3848 3153 Fax: (08)3843 9901
Email: [email protected]
Website: http://www.vinhnghiemvn.com