Chùa Giác Viên tọa tại hẻm 247 đường Lạc Long Quân,
phường 3 khu phố 1, quận 11 thành phố Hồ Chí Minh. lịch sử ngôi chùa
này gắn liền với việc xây dựng lại chùa Giác Lâm (được lập vào năm
1744, ban đầu mang tên chùa Cẩm Đệm, năm 1774, thiền sư Viên Quang về
trụ trì đổi tên thành chùa Giác Lâm). Năm Mậu Ngọ 1798, ngôi chùa bị hư
hại nặng. Thiền sư Viên Quang chủ trì tiến hành cuộc đại tu, gỗ mua về
làm chùa Giác Lâm được chở theo đường thủy cập bến Hố Đất (cách chùa
khoảng 2km). Thiền sư Viên Quang cho làm một ngôi nhà nhỏ ở bến này, cử
người phụ trách nhang đèn trọng chùa ra trông coi gỗ, gọi là ông Hương
Đăng. Ông Hương Đăng trang trí ngôi nhà nhỏ thành một cái Am, thỉnh
tượng phật về thờ. Năm 1805, ông xin phép tổ Viên Quang cho xây tại đây
một ngôi chùa, lấy tên là Quan Âm Viện. Năm 1850, Quan Âm Viện chính
thức được đổi tên thành chùa Giác Viên.
Từ khi thành lập đến
nay, chùa đã trải qua 6 đời truyền thừa: Hòa thượng Minh Khiêm, Như
Nhu, Như Phòng, Hồng Từ, Nhựt Xuân và hiện nay hòa thượng Huệ Viên đang
trụ trì tại chùa. Chùa được trùng tu lớn 3 lần: lần thứ nhất vào năm
1899 do hòa thượng Như Du đứng ra chủ trì xây dựng; lần thứ 2 vào năm
1910 do hòa thượng Như Phòng phụ trách, lần trùng tu này đã thay đổi
hoàn toàn kết cấu kiến trúc; lần thứ 3 vào cuối thập niên 20 thế kỷ XX
do hòa thượng Hồng Hưng - trụ trì chùa Giác Lâm đứng ra đảm trách,
chính ông là người thiết kế kiến trúc lại ngôi chùa Giác Lâm và Giác
Viên và cũng chính vì vậy nên hai ngôi chùa này có kiểu dáng kiến trúc
gần giống nhau.
Chùa Giác Viên có lối đi vào phía sau, vì trước
kia mặt chính của chùa quay ra bến Hố Đất, thời gian sau bến này không
còn được sử dụng, con rạch đi vào bến này bị lấp và một phần đất thuộc
khuôn viên chùa đã được khai thác thành khu du lịch Đầm Sen ngày nay.
Trong vườn phía sau chùa vẫn còn bảo tồn được một cây Bạch Mai, tương
truyền, do Mạc Cửu, người có công sáng lập ra chùa Tam Bảo - Hà Tiên,
một lần đi qua bến Hố Đất đã trồng làm kỷ niệm.
Chùa Giác Viên
có dạng kiến trúc tổng hợp của nhiều chất liệu, nhiều giai đoạn lịch sử
khác nhau, trong đó có ảnh hưởng của kiến trúc phương Tây khá rõ, thể
hiện ở mặt tiền xây vòm, cột vuông có trang trí hoa văn đắp nổi trên
đầu cột. Nhưng nhìn tổng thể, chùa Giác Viên vẫn còn giữ được đường nét
cổ kính, mang phong cách dân gian thể hiện ở kết cấu kiến trúc, sườn
mái, nghệ thuật trang trí, điêu khắc...
Tượng thờ
Hơn 200
năm kể từ khi còn là Quan Âm Viện, qua nhiều lần trùng tu, chùa Giác
Viên ngày nay càng được bổ sung mới nhiều tượng. Chùa có 153 pho tượng,
làm bằng gỗ mít, được tạo tác vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
tập trung chủ yếu ở chánh điện (128 pho) với giá trị văn hóa, nghệ
thuật đặc sắc... Bộ tượng Thập bát La Hán, bộ Thập điện Diêm Vương, bộ
Phật và tứ chúng (Phật Thích Ca, Phổ Hiền, Văn Thù, Quan Thế Âm, Đại
Thế Chí), tượng Giám trai vằng gốm sứ... là những di vật quan trọng,
gây được sự chú ý của các nhà nghiên cứu và khách tham quan.
Chánh
điện bao giờ cũng là nơi trung tâm của sự thờ cúng, ở gian này có nhiều
bàn thờ và bàn thờ ở chính giữa được làm thành các bậc từ cao xuống
thấp. Không có một công thức chung cho sự bài trí tượng thờ ở các ngôi
chùa trên đất Việt, vị trí các tượng thay đổi linh hoạt tùy theo từng
ngôi chùa. ở các ngôi chùa phía Nam, mỗi lần trùng tu lớn, người ta
thường tạo ra một loạt tượng mới để tương ứng với sự bề thế của ngôi
chùa, nhưng các tượng cũ đều chưa bị hỏng thì cũng không bị bỏ đi, cộng
với các phật tử xa gần cúng vào chùa các pho tượng... Người ta thường
tìm cách sắp xếp tất cả những pho tượng đã có sao cho hài hòa và phù
hợp.
Bộ tượng Thập bát La Hán được các nghệ nhân tạo tác với
dáng người to khỏe, ngực nở nang, mặt tròn đầy đặn, sống mũi thẳng,
bụng to, lưng dài...; với trang phục rất giản đơn: áo choàng có nẹp ở
cổ, đi hài trơn, miệng tươi cười... thể hiện tính phóng khoáng, cởi mở
không bị ràng buộc. Qua hình dáng và trang phục của các tượng, ta thấy
ảnh hưởng của phong cách nghệ thuật Trung Hoa đã nhạt dần, người xem
cảm thấy được ý đồ của tác giả muốn thể hiện các vị La Hán gần gũi hơn
với người nông dân, rất mộc mạc, chất phác và cuộc sống phóng khoáng no
đủ của cư dân người Việt trên vùng đất mới Phương Nam.
Bộ tượng
5 vị hay gọi là bộ Phật và tứ chúng thể hiện nét đặc trưng trong quá
trình phát triển Phật giáo vào phía Nam. Bộ tượng xuất hiện tại Nam Bộ
vào giai đoạn đầu thế kỷ XIX. Trong dân gian còn lưu truyền ý nghĩa của
5 vị này có nguồn gốc từ truyện Phong Thần, Phật mang phong cách Thượng
Kỳ Thú, ngồi trên lưng thú đi can gián hai nhóm Thiên Tiên và Địa Tiên,
kêu gọi hai nhóm này trở về nguyên dạng các con vật đã quy y phật; thể
hiện hình ảnh đang hoằng hóa, đang thị hiện nhập thế vào đời. Tư tưởng
và mong ước đưa giáo lý Phật giáo vào cuộc sống của cư dân Việt ở Nam
Bộ đã dần hình thành hệ thống tượng này. Trên vùng đất mới, người dân
ngoài nhu cầu cầu an khi sống, họ còn có nhu cầu cầu siêu khi mất, nên
bộ tượng 5 vị này còn được tạo tác phổ biến dưới dạng phù điêu trên các
Sám Bài (Sám là bái sám; Bài là bài vị) dùng để mang đi cúng tại các
nhà Phật tử hoặc các buổi Trai đàn Thí thực. Bộ tượng 5 vị của chùa
Giác Viên là một trong những nét sáng tạo độc đáo, góp phần làm sinh
động văn hóa Phật giáo khi vào vùng đất Nam Bộ.
Chùa Giác Viên
có lịch sử hình thành muộn hơn so với các ngôi chùa cổ ở trong vùng,
nhưng về giá trị văn hóa nghệ thuật thể hiện trong trang trí kiến trúc
thì có lẽ nó không chịu nhường bất cứ ngôi chùa nào, kể cả chùa Giác
Lâm. Các nhà nghiên cứu và khách tham quan sẽ cảm thấy hài lòng và thỏa
mãn bởi nghệ thuật trang trí, chạm khắc gỗ cực kỳ tinh xảo ở nơi đây:
Bao lam (cửa võng), hoành phi, câu đối, phù điêu từ chánh điện, nhà Tổ
cho đến hành lang, Đông Lang và Tây Lang.
Bao lam (cửa võng)
Chùa
có 58 bao lam lớn nhỏ, đáng kể nhất là bao lam Bá Điểu, nghệ nhân đã
khéo léo sắp xếp tới gần 100 con chim lớn nhỏ. Ngoài những chim thường
gặp trong các đình chùa khác như loan, phụng, công, trĩ... người ta còn
thấy đông đủ các loài chim quen thuộc trong sân vườn, đồng ruộng của
miền Nam như: cò, chim sẻ, chào mào, họa mi, chích chòe, bói cá, le
le,... với đủ mọi tư thế sinh động trong không khí náo nhiệt của loài
chim: con bay, con đậu, con đang tranh mồi, đang nô đùa, có những con
lại đang tỏ tình âu yếm... Bộ bao lam này có thể nói là “độc nhất, vô
nhị” ở Nam Bộ, nghệ thuật trang trí ở đây làm cho người xem cảm giác
đang sống trong đời thực với những chi tiết cụ thể, gần gũi với đời
sống nông thôn, biểu lộ óc quan sát tinh tế và tình yêu thiên nhiên của
các nghệ nhân.
Tấm bao làm Thập bát La Hán cũng rất đặc biệt.
Các đám mây được tạc làm nền gắn các tượng La Hán lại, mỗi bên bao lam
có 9 vị; mỗi vị cưỡi một con vật như: bò, dê, nai, heo, chó, hươu, đến
rồng, lân, báo, cọp, mèo; với tư thế ngồi, chân co, chân duỗi khác
nhau; tay mỗi vị cầm một vật tượng trưng cho tính cách của mình: chày,
thẻ bài, vòng kim cô, đĩa trái cây, có vị lại ngồi ngoáy ráy tai cười
vui vẻ... Tấm bao lam này đã thể hiện phong cách nghệ thuật mới, độc
đáo, đặc sắc và đầy sáng tạo, đó là ngoài việc để thờ phụng, các vị La
Hán đã được các nghệ nhân đưa lên bao lam để trang trí. Tấm bao lam này
mang lại nét vui tươi cho người xem qua gương mặt các vị La Hán hiền
hòa, phúc hậu vui tính... không thể tìm thấy được nét ưu tư, khắc khổ,
phiền não như các vị La Hán ở những chùa phía Bắc. Điều này nói lên
được tính phòng khoáng cộng với sự sung túc, no đủ của cư dân vùng đất
mới. Các con vật cưỡi và phong cách của các vị La Hán đã mang lại cho
Phật giáo một tính cách dân dã, bình dị.
Còn nhiều bao lam nổi
tiếng với kỹ thuật chạm khắc công phu như: Tô Vũ chăn dê, Lã Vọng câu
cá, Khỉ bắt chim, Ngư tiều canh mục..., đặc biệt là bao lam Hoa điểu
tại nhà Trai gồm có 3 bức tượng chạm lộng cả hai mặt với đề tài chim
muông cây cảnh và các loại hoa trái được khắc họa khéo léo, tài tình.
Người xem có thể thấy được những sợi lông đuôi chim và các lá cây bay
nghiêng theo chiều gió, những cành tre nhỏ xíu thể hiện được cả đường
gân, gai, đốt mà khi nhìn vào ta có thể thấy được là tre già hay non,
các loại trái cây đang mùa chín rộ, cành cây nặng trĩu xuống... Nhìn
chung các đề tài của bao lam chùa Giác Viên có phân theo công thức cổ
nhưng họa tiết, cả về hình dáng và nội tâm, thì lại là của những người
dân ở vùng đất mới phương Nam. Sự phá bỏ công thức này đã thể hiện rõ
nhất ở chỗ nghệ nhân không chỉ để các vị thần cưỡi các linh vật như
long, lân, quy, phụng... mà cả trâu, bò, dê, heo... thậm chí cả những
chú chó nghịch ngợm. Quả là Phật ở đây không chỉ gọi là dân gian hóa mà
có thể được gọi là “Nam Bộ hóa”, chất Nam Bộ ở đây thể hiện rất rõ nét
trong hầu hết các bao lam của chùa Giác Viên.
Câu đối
Chùa
có 128 câu đối, trong đó có 72 câu đối treo ở dạng liễn; 56 câu đối
được chạm khắc hẳn vào thân những cột gỗ cao lớn, đồ sộ. Các câu đối
được khắc chìm vào cột dày 1cm, nền sơn màu đen, thếp chữ màu vàng.
Xung quanh viền có trang trí phù điêu với nhiều chủ đề khác nhau, làm
tôn lên giá trị và nội dung của các câu đối. Các đề tài quen thuộc
trong Phật giáo như Thập bát La Hán, Bát Tiên, Tứ linh, Rồng Mây... xem
các đề tài quen thuộc, gần gũi với cuộc sống thường nhật và cảnh vật
xung quan như: Hoa điểu, Sóc giác, bướm hoa, ong hoa, bầu bí, thú vật
và cỏ cây... Và nhiều chủ đề khác nói về cảnh vật nơi đây từ hơn hai
thế kỷ trước. Điều này cho chúng ta thấy được nơi đây tuy là cõi Phật
nhưng lại rất gần gũi với người nông dân. Việc chạm khắc những câu đối
tinh xảo lên thân cột này chứng tỏ tay nghề rất điêu luyện của các nghệ
nhân, bởi lẽ chỉ cần một sơ xuất nhỏ cũng phải bỏ đi một thân cây gỗ
lớn.
Các câu đối ở dạng Liễn tập trung chủ yếu ở nhà Trai, có
niên đại rất khác nhau do được cúng, tặng nhân dịp chùa các các cuộc tế
lớn, hoặc sau những lần trùng tu, phật tử và các chùa ở nhiều nơi đem
đến tặng... Các câu đối này có dạng hình vuông phẳng, có hoa văn ngay ở
trên thân hoặc ở hai đầu, chữ được khắc chìm, thếp vàng trên nền màu
đỏ. Trong số liễn này, có 4 câu đối treo ở chánh điện, có niên đại cuối
thế kỷ XIX, được chạm trổ hết sức tinh xảo và công phu. Toàn bộ nền của
câu đối được chạm trổ với đề tài Tứ linh, chữ được chạm nổi lên trên
các con vật này, sơn màu đen, nền màu vàng. Đặc biệt là 4 câu đối này
cùng chủ đề Tứ linh, nhưng 4 con vật trong những câu đối lại được thể
hiện ở các trạng thái khác nhau, tính cách khác nhau: Rồng có con đang
uốn lượn, con nhe răng cười, có con lại nép mình trong mây, các con vật
kia cũng đều thể hiện tính cách khác nhau khiến người xem không thấy
nhàm chán.
Các câu đối của chùa Giác Viên tuy có một số câu bị
trùng, do được tặng và khi trùng tu vẫn giữ lại nhưng về nội dung rất
phong phú. Ngoài những giáo lý căn bản của Phật thể hiện cung cách, oai
nghi, phẩm hạnh; những câu khuyên nhủ, ca tụng cuộc sống thanh tịnh ở
cõi Phật thể hiện tinh thần trong 5 bộ kinh của Phật giáo..., còn có
những câu đối ảnh hưởng của Nho giáo, Đạo giáo. Theo hòa thượng Thích
Huệ Viên, hiện đang trụ trì chùa thì những tên gọi, các môn phái hoặc
phổ hệ, kinh hệ, pháp giới... thường chỉ nằm trong sách vở hoặc trong
trí nhớ của các vị cao tăng, còn đi đôi với số đông tu hành, nhất là
các thiện nam tín nữ thì việc thờ Thần, thờ Phật cũng không khác việc
thờ cúng ông bà tổ tiên, miễn sao trong tâm hướng về cái thiện và cảm
thấy thoải mái là được. Đây cũng là tâm lý phổ biến của cư dân trong
vùng thời bấy giờ mà những gì còn lại được thể hiện rõ, cụ thể nhất, đó
là trong hệ thống câu đối của chùa Giác Viên.
Phù điêu
Hệ
thống phù điêu của chùa Giác Viên đa dạng và tinh xảo không kém so với
các bao lam, câu đối. Ngoài việc làm nền cho các câu đối, phù điêu còn
được chạm khắc trên thân cột. Qua hệ thống phù điêu, khung cảnh dân
gian Nam Bộ hiện ra rực rỡ dưới những đường nét chạm trổ khéo léo, tài
tình của nghệ nhân. Các phù điêu được chạm khắc với những đề tài: Bát
Tiên, Thập bát La Hán, Tứ linh... được đặt và có chủ ý ở hai bên bàn
thờ của chánh điện. Xung quanh chánh điện và các gian khác, phù điêu
được chạm khắc với các đề tài dân dã, từ những con thú quý hiếm đến
những con vật bình thường và các loài cây cỏ, hoa lá thường gặp trong
cuộc sống hàng ngày của người nông dân. Hình ảnh những con sóc đuổi
nhau trên những dây bầu, bí; những con chuột cắn đuôi nhau; những con
ong đang đi tìm hoa hút mật; những con bướm xòe khoe đôi cánh đẹp;
những chú chim đang hót gọi nhau, có con đang bới lá tìm sâu, chim sẻ
đang mớm mồi cho con ăn; những cánh hoa sen đang nở rộ chờ bướm đến tìm
nhụy, cành lá sen nhô lên khỏi mặt nước che cho những con cá đang bơi
lội tung tăng phía dưới... Khung cảnh thiên nhiên Nam Bộ đã được các
tác giả cụ thể hóa vào thân cột, gợi lại cho người xem khung cảnh thực,
sống động ở nơi đây từ những thế kỷ trước.
Các phù điêu được tạo
tác cùng thời với các câu đối nên có niên đại như nhau vào khoảng cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sau các lần trùng tu lớn. ảnh hưởng phong
cách nghệ thuật chạm khắc nổi giai đoạn cuối thế kỷ XIX, có chú ý sự
đối xứng trên cách cột với nhau, hai cột đối xứng thì có chung một đề
tài. Phù điêu trên các thân cột tại chùa, ngoài chức năng làm vật trang
trí, nó cũng đem lại một ý nghĩa lịch sử nhất định, minh chứng cho sự
ảnh hưởng của các luồng tư tưởng của Nho, Phật, Đạo vào tâm thức người
Việt ở phía Nam thời bấy giờ. Các đề tài trên phần nào thể hiện, tâm
tư, tình cảm của người dân nơi đây: lòng yêu thiên nhiên, con người, óc
thực tế mang đậm đà phong cách dân gian.
Qua nghệ thuật trang
trí của chùa Giác Viên, ta có thể cảm nhận được cái thiêng liêng, cao
xa hòa quyện với những cái đơn sơ, mộc mạc trong cuộc sống. Đối với cư
dân vùng đất mới, đạo Phật đã được bình dân hóa và được đưa về gần gũi
hơn với cuộc sống con người. Các mô típ trình bày ở đây dường như đã
vượt khuôn khổ, phá vỡ tính ước lệ, thể hiện sự phóng khoáng trong tư
tưởng và quan điểm thẩm mỹ, có chiều hướng thoát ly dần sự bắt chước,
rập khuôn theo những ngôi chùa miền Trung và miền Bắc. Điều này bước
đầu đã thể hiện một phong cách mới, mang tính hiện thực và đầy sáng tạo
của điêu khắc gỗ đất Gia Định.
Hệ thống bao lam, câu đối và phù
điêu ở chùa Giác Viên vượt trội so với chùa Giác Lâm và một số ngôi
chùa cổ trong vùng, từ kỹ thuật chạm lộng đến các đề tài phong phú, hữu
tình, gần gũi với cuộc sống người nông dân chứ không gò ép theo một
khuôn nhất định với các chủ đề quen thuộc. Theo chúng tôi, sở dĩ nghệ
thuật trang trí chùa Giác Viên có những bước phát triển vượt trội hơn
so với chùa Giác Lâm bởi một mặt nó ra đời muộn hơn nên các nghệ nhân
đã rút ra nhiều kinh nghiệm; mặt khác: có thể vào thế kỷ XIX chùa Giác
Lâm đóng vai trò là Tổ đình của phái Lâm Tế, dòng đạo Bổn Ngươn, là
trung tâm đào tạo ứng Phú của vùng Gia Định - một loại âm nhạc của Phật
Giáo, cộng với tính chất cởi mở, dễ chấp nhận và dễ hòa đồng của cư dân
nơi đây, vì vậy tư tưởng có phần phóng khoáng, tự do.
Thành phố
Hồ Chí Minh là một thành phố trẻ với lịch sử hình thành hơn 300 năk,
những di tích kiến trúc nghệ thuật có niên đại sớm không còn nhiều.
Chùa Giác Viên là một trong những di tích còn lưu lại nhiều hiện vật
thể hiện được bản sắc của văn hóa Phật giáo ở Nam Bộ. Nhiều nhà nghiên
cứu mỹ thuật đã đánh giá cao giá trị kiến trúc nghệ thuật và điêu khắc
của chùa Giác Viên, khẳng định đây là một công trình quý hiếm, tiêu
biểu cho nền nghệ thuật chạm khắc gỗ ở đất Gia Định giai đoạn cuối thế
kỷ XIX. Là một di tích Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận di tích lịch sử
văn hóa cấp quốc gia, cho đến nay chùa Giác Viên vẫn lưu giữ trong mình
những giá trị đặc sắc được tích tụ trong suốt quá trình tồn tại.
Với
những giá trị văn hóa nghệ thuật như vậy, có thể nói, chùa Giác Viên là
một trong những di tích có kiến trúc và trang trí điêu khắc độc đáo,
đặc sắc của vùng đất Gia Định - Sài Gòn. Chùa Giác Viên không chỉ là
trung tâm sinh hoạt tâm linh của cộng đồng cư dân thành phố Hồ Chí Minh
mà còn là một điểm du lịch hấp dẫn cho du khác tham quan trong và ngoài
nước, là nơi thu hút các nhà nghiên cứu và tất cả những ai muốn tìm
hiểu về cội nguồn dân tộc, về văn hóa dân gian Nam Bộ.
(Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 4, 2004 (238)