Thiền sư Trí Hải, thế danh Đoàn Thanh Tảo, sinh năm 1906, nguyên quán
xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, xuất thân trong một gia
đình Nho giáo, là một thiền sư có nhiều cống hiến trong phong trào Chấn
hưng Phật giáo ở Việt Nam.
Trải qua 35 năm, từ lúc phôi thai
(1924) của phong trào Chấn hưng Phật giáo đến năm 1958 thành lập Hội
Phật giáo Thống nhất Việt Nam, tuy có những thuận lợi, nhưng cũng gặp
nhiều trắc trở khó khăn. Từ lúc đầu xướng lên phong trào Chấn hưng Phật
giáo đã có những ý kiến khác nhau:
+ Có ý kiến cho rằng: Chấn
hưng Phật giáo là việc viển vông, tình hình hiện nay Phật giáo vẫn hưng
thịnh, chùa vẫn làm, tượng vẫn tô, chuông vẫn đúc, khách thập phương
kính lễ rất đông đủ bốn mùa…
+ Có vị lại nói coi chừng: Phật cao một thước, ma cao chín tầng, người làm ít kẻ phá thì nhiều.
Khi
dịch kinh từ tiếng Hán sang tiếng Việt (Quốc ngữ), có vị lại cho rằng:
Tân thời nhố nhăng, tụng kinh bằng Quốc ngữ, đọc sớ Quốc ngữ, Phật có
biết đâu mà tụng đọc. Kinh sách đem in Quốc ngữ để cho người dùng vào
việc làm giấy bọc hàng hoặc dùng vào việc bậy bạ… Hơn nữa in chữ Quốc
ngữ ai cũng đọc được thì ai còn mời các sư tụng kinh làm sớ nữa. Nói
chung là bị đả kích rất dữ dội thậm chí đến sư phụ của Thượng toạ Trí
Hải cũng nói: “Chú ấy học hành chí khí xem cũng khá, nhưng không khéo
cũng sẽ nguy về chú ấy”. Câu này ý nói không khéo sẽ phải vào tù ăn cơm
nắm.
Phong trào Phật giáo Chấn hưng lúc đó ví như con cá bơi
ngược dòng cố tiến lên, việc khó mới làm của những người có chí lớn,
thua keo này bày keo khác.
Qua năm sáu năm, phong trào Phật giáo Chấn hưng không thành lập được Hội.
Sau
Thượng toạ lại khéo léo dùng tổ chức Hội Liên Xã các Sơn môn từng khu
vực, lấy tên hội là: “Lục Hoà Tịnh Lữ”. Đại ý những người trong sạch
sống theo tổ chức lục hoà của nhà Phật:
1. Thân Hoà Đồng Trụ: cùng sống chung một nơi
2. Khẩu Hoà vô tránh: nói năng hoà nhã không tranh cãi nhau
3. Ý hoà vô vi: một lòng một dạ không trái ý nhau
4. Kiến hoà đồng giải: hiểu biết thông cảm nhau
5. Giới hoà đồng tu: giữ chung một kỷ luật
6. Lợi hoà đồng quân: có lợi chia đều nhau cùng hưởng
Mục
đích: khuyến khích nhau về đường tu học, giúp đỡ nhau khi có công việc
cần thiết, như khi có sư trưởng, phụ mẫu mất hoặc những việc hội hè làm
chùa, tô tượng, đúc chuông…
+ Về tài chính, mỗi năm đóng năm đồng (tiền Đông Dương) số tiền này để trợ cấp cho các tăng ni sinh đi học.
Ngoài
ra, Thượng toạ còn vận động các bậc cao tăng, cư sĩ nhiệt liệt ủng hộ
như Hoà thượng Thích Thanh Hanh trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm, khi thành lập
Hội suy tôn Thuyền gia Pháp Chủ, Hoà thượng Phổ Hải chùa Tế Cát, cư sĩ
Nguyễn Hữu Kha con cụ cử nhân Nguyễn Hữu Cầu ở Đông Tác Hà Nội. Về dịch
kinh điển nhà Phật, vận động các vị cao tăng, cư sĩ cùng cộng tác như
Hoà thượng Thích Thanh Thịnh chùa Bà Đá - Hà Nội, Hoà thượng Trung Hậu,
Hoà thượng Bằng Sở, Hoà thượng Thích Thanh Thuyên (Tuệ Tạng - chùa
Cồn), Thượng toạ Thái Hoà, nhà sư Vũ Đình Ứng, cư sĩ Lê Toại, Trần Văn
Giáp…
Trên cơ sở đó thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ ngày 6-11-1934 do
ông Nguyễn Năng Quốc - Tổng đốc chí sĩ ấp Thái Hà, huyện Hoàn Long, Hà
Nội - làm Chánh Hội trưởng; xuất bản tuần báo Đuốc Tuệ; kiến thiết lại
chùa Quán Sứ; mở trường Tăng học; thỉnh Đại Tạng kinh; cử người đi học
nước ngoài.
Năm 1937, Thượng toạ Trí Hải cùng với Thượng toạ
Thích Mật Thể (Huế) sang Trung Quốc du học, gặp các sư bên ấy hỏi các
vị quê ở nước nào? Thượng toạ Trí Hải trả lời: “Tôi ở nước Việt Nam”,
bị các vị ấy hỏi lại: “Việt Nam ở đâu? Là Pháp quốc có phải không? Có
vị lại hỏi Việt Nam là Trung Quốc ngày xưa có phải không?”
- Không
đúng, đều là không đúng. Nếu Việt Nam là Pháp Quốc hay Trung Quốc sao
không gọi là Pháp Quốc – Trung Quốc mà lại gọi là Việt Nam, có chăng
ngày xưa bị Trung Quốc đô hộ, ngày nay bị Pháp Quốc xâm lược mà thôi.
Thực không có cái nhục nào bằng cái nhục mất nước, đến cái tên nước
cũng không ai biết đến. Qua mẩu đối thoại ngắn này chúng ta thấy Thượng
toạ Trí Hải có tinh thần tự tôn dân tộc rất cao.
Xưa kia cũng
non song đất nước này, ngày nay cũng vẫn đất nước non sông này. Ngày
nay có thể nói khắp thế giới loài người nói đến hai chữ Việt Nam không
ai là không biết tới; không ai là người không ca ngợi là một đất nước
anh hùng đúng như lời Hồ Chủ Tịch nói: “Đất nước Việt Nam là đất nước
anh hùng, dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng”…
Nói riêng về
giới Phật giáo chính là những người theo tôn chỉ giáo lý của Phật dạy
là: “Tinh thần vô uý, đại dũng mãnh, đại tinh tiến, đại hùng, đại lực,
đại từ bi”.
Trong phong trào Chấn hưng Phật giáo có nhiều yếu
nhân xuất gia hoặc tại gia góp công của góp trí thức. Thượng toạ Trí
Hải là một tấm gương xán lạn đáng trân trọng. Thượng toạ đã có nhiều
tác phẩm, nhiều bài báo, nhiều bản dịch kinh, nhiều buổi thuyết pháp,
đặc biệt có trên 30 tác phẩm có giá trị, như cuốn:
Phật giáo Việt Nam, với nội dung: Chỉnh lý - Văn răn chớ giết hại.
- Vấn đề chùa cảnh… - Tinh thần giáo lý…
Trong
chương nói về “Văn răn chớ giết hại”, là vấn đề rất quan trọng trong
thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, chính trong giới Phật giáo cũng có vị bàn
nên bớt giới (sát sinh) này đi, nếu để thì làm giảm tinh thần giết giặc
cứu nước, mới nghe thấy cũng có một số người cho là hợp lý, nếu suy cho
cùng, xét cho kỹ thì khác hẳn, bởi tôn chỉ của Phật là từ bi, hỉ xả,
cứu nhân độ thế, lấy từ bi làm gốc rễ, lấy phương tiện làm cứu cánh.
Đối với trường hợp nếu cần phải giết thì vẫn làm được. Chính trong kinh
Lục Độ cũng chép một chuyện: Đời trước Đức Thích Ca còn tại gia làm
người đi buôn, bấy giờ gặp một tên giặc là người quen biết, hôm ấy bọn
chúng đã bàn nhau sẽ giết chết bọn lái buôn của Ngài để cướp của, tên
giặc kia nói với Ngài là: vì tôi với Ngài là chỗ quen biết, tôi không
muốn để Ngài bị hại. Nên Ngài tìm cách tránh đi khỏi khu vực này trong
đêm nay”. Bấy giờ Ngài tự nghĩ: Nếu ta trốn đi chỉ riêng mình ta thoát
nạn, còn các bạn ta đều bị chết, mà để bọn giặc sống chúng cứ tiếp tục
làm giặc mãi thì chúng sẽ mắc tội đời đời. Chi bằng ta giết chúng (bọn
giặc) để cứu cho chúng bớt gây tội ác đỡ bị khổ. Nghĩ xong, Ngài giết
ngay tên giặc kia, chúng bạn đều thoát nạn. Như thế là không những ngài
chỉ cứu được bạn mà còn cứu cho cả bọn giặc kia từ đấy không còn gây
tội ác với những người sau này, trong khi giết Ngài còn nghĩ rằng nay
ta nhận lấy tội giết người về ta, để ta chịu tội thay cho bọn giặc kia.
Lại
trong kinh Đại Phương Tiện Báo Ân cũng chép một chuyện: Có một hôm đức
Phật đi qua một khu rừng nghe đồn trong đó có bọn giặc rất đông. Chúng
thường đón đường giết người, cướp của. Ngài liền dùng phép thần thông
hoá thành một người sức lực oai vệ, ăn mặc tề chỉnh, mình đeo mang rất
nhiều vàng ngọc châu báu, tay cầm cung tên, cưỡi trên mình ngựa, ung
dung đi vào khu đó. Bọn kia trông thấy rất lấy làm mừng rỡ, chúng bảo
nhau ta làm giặc đã lâu, mà chưa từng thấy người nào như thế kia. Nếu
ta giết người kia đi, thì của ấy lấy về chia cho nhau tiêu đến bẩy đời
không hết. Bàn xong chúng xô nhau kéo ra bao vây chung quanh Ngài. Ngài
liền dương cung bắn, mỗi lần bắn ra rất nhiều tên, cả bọn đều trúng tên
rất đau đớn vô cùng mà không có cách nào tháo tên ra được, chúng kêu la
thảm khốc vang động cả khu rừng, cầu xin Ngài cứu chữa và xin được quy
y Ngài. Bấy giờ Ngài liền giảng đạo cho nghe, khuyên chúng bỏ ác làm
lành, chúng đều nhất tâm quy y. Ngài liền dùng phép thần thông nhẹ
nhàng rút hết các mũi tên ra cho chúng, thân thể chúng trở lại khoẻ
mạnh bình thường.
Qua hai mẩu chuyện trên thấy rằng, việc đánh
giặc và giết giặc là Phật dùng phương tiện “giết quỷ cứu chúng sinh”,
không phải đánh giết để cầu lợi cho riêng mình.
Ở nước ta các
vua triều Lý, Trần có nhiều vị xuất gia, khi còn tại gia rất tín mộ đạo
Phật, nhưng các vị đều lãnh đạo nhân dân đánh giặc cứu nước xong lại đi
tu. Như thế có gì là trái với đạo và đời đâu.
Trong chương nói
về chùa cảnh: Thượng toạ dẫn lịch sử Phật giáo thời Lý Trần: “Chùa là
nơi trung tâm văn hoá là trường học. Trong đó có chép những thời kỳ
này, dân đi xuất gia tới quá nửa, như trên đã nói đi tu là đi học, vì
bấy giờ trường công chưa có mấy mà chỉ có vào chùa mới có trường học,
các sư mới là thầy giáo. Vậy những người đi tu là đi học, vào chùa được
học được ăn ngay trong chùa. Trong thời gian tu học xong lại trở ra làm
việc xã hội như mọi người, có thể nói chùa vừa là trường học cũng là ký
túc xá cho học sinh, toàn thể học sinh đến học không phải đóng học phí
lại cũng không phải đóng tiền ăn, như vậy học sinh, sinh viên trong cả
nước đều hưởng học bổng 100%. Một nước như thế có thể gọi là nước văn
minh tiến bộ theo với thời đại ấy. Trong số người xuất gia lúc ấy tất
có những vị xuất sắc làm nên những kỳ tích phục vụ nhân dân gây được
tinh thần độc lập tự cường, chưa nói đến việc chống ngoại xâm bảo vệ
nhân dân, giữ gìn sức khoẻ cho dân bảo vệ đất nước, như sự cụ Tuệ Tĩnh
mồ côi cha mẹ vào chùa tu học từ năm sáu tuổi, sau trở thành một vị
thánh dược chữa thuốc nam cho nhân dân danh tiếng còn lưu đến đời nay.
Về
sinh hoạt cá nhân, Người sống rất giản dị giữ tràng trai (chuyên ăn
chay) theo phép điều hoà âm dương của giáo sư CHSAVA người Nhật Bản,
chính giáo sư đã đi khắp bốn biển năm châu chữa khỏi cho hang nghìn
hang vạn bệnh nhân. Thượng toạ Trí Hải bị bệnh đau dạ dầy, cao huyết áp
theo sự chỉ dẫn của giáo sư ăn gạo lứt muối vừng với vài thứ rau, sau
hai tuần đã khỏi bệnh và cứ thế tiếp tục ăn chay.
Những năm 40
thế kỷ XX, tôi được gặp và đi theo Thượng toạ, thấy Người thường dùng
xe đạp (Te rô) cũ của Pháp đằng sau là một cái hộp nhỏ để sách vở hoặc
vài thứ sinh hoạt cần thiết, thế mà Người đi khắp xứ Bắc Nam để hoằng
pháp, tăng ni và tín đồ rất thán phục cách sinh hoạt của Người.
Một
điều đặc biệt là Người rất quan tâm đến việc cứu tế. Tháng giêng năm
1945 nạn đói ngày càng khủng khiếp trầm trọng, Thượng toạ được Hội Phật
giáo cử làm Tổng Đại diện tham gia Tổng Hội Cứu Tế. Trung tuần tháng 02
năm 1945, Người về Nam Định, trên đường đi gặp nhiều người bị đói nằm
quằn quại vào nhiều người đã chết. Về tới chùa Cổ Lễ, huyện Trực Ninh,
Nam Định một nơi danh tiếng mà chỉ làm được một việc nhỏ cứu đói bằng
cách nấu cháo phát chẩn cầm hơi. Người bàn với Thượng toạ Phạm Thế Long
đến gặp tổng đốc Nam Định là ông Từ Bội Thục để mua gạo cứu đói, rồi
lại lên Lạng Sơn biên giới mua được trăm tạ gạo chở trên xe lửa, bị
hiến binh Nhật Bản bắt giam hang tuần tra hỏi rất khốn khổ, vì chúng
nghi số gạo trên xe lửa là của chúng bị mất. Sau Người phải nhờ một vị
sư người Nhật Bản can thiệp chúng mới tha cho về.
Trong chiến
tranh, lúc tản cư về hậu phương, Người tổ chức một số trại trẻ để cứu
các em mồ côi, thế mà cũng có người không ủng hộ, lần đi đến các chùa
nói với các nhà sư là đừng ủng hộ Viện Cô Nhi (cứu trẻ) cứ để cho thầy
trò Trí Hải chết. Nhưng Người cùng với cư sĩ Thiều Chửu vẫn quyết tâm
khắc phục mọi khó khăn, tổ chức cứu được gần trăm trẻ em khỏi chết đói
và ăn học nên người.
Ngoài việc hoạt động từ thiện Người lại có
biệt tài về hoạt động tài chính, như vận động khuyến khích các nhà hảo
tâm, các công hội các vị có chức sắc giàu có phát tâm ủng hộ xây dựng
chùa cảnh như khi nhập tự xây dựng chùa Quán Sứ , và chùa Phật giáo Hải
Phòng, chùa Đông Kết - Hưng Yên, trường học Vạn Hạnh (Hàm Long, Hà
Nội), mở các trường Tăng học, các trại Cô Nhi ở các địa phương… Thế mà
cũng có người viết ca châm biếm: “Thuyết pháp Tố Liên, làm tiền Trí
Hải”, nhưng nhiều người lại nói rằng nếu không có tài ngoại giao về tài
chính như Thượng toạ Trí Hải thì lấy đâu ra tiền để xây dựng nhưng di
tích Phật giáo hiện nay.
Một điều rất đáng thán phục là tài ứng
xử của Người rất tài tình, với mọi chế độ chính trị, mọi nhà cầm quyền
để làm việc đạo, với Người: “Thiền môn là bất biến” không xu thời,
không bị động, không ham địa vị danh vọng, chấp hành mọi pháp luật của
các nhà cầm quyền ở địa phương cũng như trung ương, từ một việc rất nhỏ
như ở đâu phải đăng ký tạm trú tạm vắng, đến đâu phải khai báo Người
chấp hành rất nghiêm chỉnh, vô tư không ngại khó, ngại phiền. Có lẽ với
tác phong đó mà Người trụ trì được lâu dài ở bất cứ nơi đâu, cũng làm
tròn nhiệm vụ phục vụ Thiền môn, nhưng người quản lý phần đời của Người
không ai dám trách cứ. Tóm lại, Người sống rất thanh bạch, giản dị,
khiêm tôn, không có một tì vết gì mà ngoài đời bình phẩm…
Thượng
toạ Trí Hải xuất gia năm 17 tuổi, qua hai năm tu học đã nhận thấy tinh
thần Phật giáo rất thiết thực mang lại lợi ích cho chúng sinh trong đời
hiện tại và tương lai. Ngay trong bài phát nguyện về khoá lễ buổi sáng
đã có câu: “Gặp lúc người đời bị đau ốm nặng, nguyện hoá ra thuốc men
để cứu chữa, khi nhân dân bị đói thiếu, nguyện hoá ra lúa gạo để giúp
đỡ”.
Chỉ hai câu này thôi đã hàm ý nói lên tinh thần “cứu khổ
cứu nạn” của nhà Phật. Đây cũng là phương châm cách sống suốt đời tu
hành của Thượng toạ Trí Hải.
Những buổi Thượng toạ thuyết Pháp
về “Tứ Ân”, những buổi bình thơ Thiền, như bài Quốc Tộ của Thiền sư
Pháp Thuận khuyên nhủ vua Lê Đại Hành cách thức xây dựng đất nước theo
đường lối “Vô vi” , dập tắt được nạn binh đao, phải dùng lòng yêu
thương, đức hi sinh theo tinh thần Phật giáo thì mới dập tắt được đao
binh.
Quốc Tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô - vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh
* * *
(Vận nước rất bền vững,
Trời Nam mở thái bình.
Vô - vi trên điện gác,
Chốn chốn dứt đao binh)
Bài
thơ Quốc Tộ này có trước bài Nam Quốc Sơn Hà và bài Phạt Tống Lộ Bố của
Lý Thường Kiết: Hai bài thơ cách nhau gần một thế kỷ (990-1075)
Hoặc những buổi nói chuyện về lịch sử Trúc Lâm Tam Tổ, Thượng toạ nhắc lại chuyện:
Hỏi sư ở đâu? Rằng Vua Nam Định (Thiên Trường)
Hỏi tiểu ở đâu? rằng trạng Bắc Ninh.
Vua Trần Nhân Tông quê làng Tức Mặc, Nam Định (Thiên Trường), khi đi tu lên bậc Điều Ngự Giác Hoàng.
Ngài Huyền Quang quê ở Vạn Ty, Bắc Ninh đỗ trạng nguyên rồi mới đi tu.
Cách
thuyết giảng của Thượng toạ có sức thuyết phục hấp dẫn dễ nghe, dễ
hiểu, gây cảm xúc sâu sắc, đúng là một nhà mô phạm về hoằng dương Phật
pháp.
Thay lời kết:
TRÍ HẢI THIỀN SƯ
Trí thức viên thông, đạo pháp thông,
Hải tâm như Hải vãn Tây Đông.
Thiền môn bất biến Thiền sinh tuệ,
Sư thuyết Chân Như., địa Lạc Hồng.
(Trí thông đạo pháp viên thông,
Hải là tâm Phật mênh mông biển trời.
Thiền môn bất biến khôn vơi,
Sư người đất Việt thuyết lời Chân Như)
(Bài tham luận Hội Thảo Samôn Trí Hải và Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo ở Việt Nam)